(tiếp theo số báo 3388)

Minh họa: P.B.T
Sau đó ông dẫn tôi đi thăm cô Sáu, cách đó hơn 10 cây số. Nhà cô Sáu là một căn nhà nhỏ, nằm lọt thỏm trong vườn cây ăn trái và mặt xoay ra một nhánh rạch, ăn thông với sông Cả Côn. Cô Sáu năm nay đã 89 tuổi, người con trai Út cô bảo: “Suốt tuần nay cô không ngủ vì nghe tin có bà con dưới Bạc Liêu lên thăm”.
Cô Sáu run rẩy, nắm tay từng đứa cháu lần đầu được gặp, rồi lúc khóc lúc cười mà kể, đại ý như sau: Thuở sinh tiền tía cô (ông Tám Cúc) trong những lúc buồn đời ông nhậu một mình rồi kể với con cháu rằng, năm đó, xưa lắm rồi, cũng không nhớ năm nào, tháng nào chỉ nhớ khi ấy giặc giã nổi lên, quân Pháp từ Gò Công tiến vào bằng máy bay, tàu chiến gây nên cảnh hỏa hoạn tang tóc khắp nơi ở tỉnh Tiền Giang, tía cô theo ông nội cô là ông Phan Văn Hà bồng bế má và 8 chị em ông xuống ghe xuôi về phương Nam mà chạy giặc và tìm đất mới.
Hồi ấy, tía cô còn nhỏ nhưng cũng đã quan sát được xung quanh. Đường về phương Nam là sông sâu nước chảy, cá dữ to bằng chiếc ghe, quẫy trắng sông Cả Côn. Sông thì quanh co, khúc khuỷu và đầy doi vịnh. Ghe vượt sông Tiền Giang, đi xuống Bãi Xàu rồi xuôi về Cổ Cò, Vàm Lẽo mà về vùng Bạc Liêu. Trên đường đi có hai ngã ba là ngã ba Cổ Cò và ngã ba Vàm Lẽo là nơi tử địa, nó nhấn chìm không biết bao nhiêu ghe xuồng. Từ xa 2 - 3 cây số đã nghe tiếng gào rú của xoáy nước giữa ngã ba. Đó là một hố nước xoáy to cả công đất và sâu hoắm. Thẩy một cặp dừa khô xuống xoáy nước nuốt chửng và nhả ra cách đó 2 - 3 cây số. Định mệnh thảm khốc sẽ đến nếu ghe, xuồng nào đi đêm không thấy đường đến gần. Ven đôi bờ thời đó thì hoang vu rừng rậm với những cây mắm, sú vẹt to cả ôm người. Đêm đợi nước ở vàm sông, có tiếng vạc sành đánh rớt trên sông làm sầu thảm thêm kiếp đời tha phương ly xứ. Xa xa ven đôi bờ người ta treo một chiếc áo đen để cảnh báo cho khách thương hồ biết rằng nơi đây cọp vừa ăn thịt người. Thỉnh thoảng cũng bắt gặp một xóm nhỏ ven bờ với ánh đèn dầu cá tù mù như ánh lửa ma trơi.
Rồi một sáng nọ, gia đình tía cô bắt gặp một cái làng cháy rụi do dịch bệnh hoành hành, dân tự đốt làng mà bỏ đi nơi khác. Trên bến sông là một chòm mả hoang, sóng vỗ bờ sông làm sụp lở lộ ra những chiếc quan tài mục ruỗng. Người nằm dưới đó không biết bản quán nơi đâu, chỉ thấy mồ hoang mả lạnh, khiến những người tha phương chạnh lòng mà cảm thân phận - đất nước điêu linh, con dân lạc loài.
Gia đình tía cô cặp bến xóm Năm Căn (thuộc xã Hưng Thành, huyện Vĩnh Lợi ngày nay) mà lên bờ chọn đất khẩn hoang lập nghiệp. Trong 8 anh em của tía cô, có một người chị thứ Hai đẹp người đẹp nết, vì vậy được ông Cả Thi đem lòng thương yêu. Cả Thi là chức sắc trong làng lại là địa chủ lớn vùng Năm Căn. Thế là bước đường cơ nhỡ của gia đình ông có bến đậu. Nhưng Cả Thi là người Tàu, rất kỹ tính, gia đình tía cô làm ruộng vẫn với danh nghĩa tá điền, tới mùa vẫn phải đóng lúa ruộng cho chủ. Giận anh rể, giận đời, tía cô bỏ lại cha mẹ anh em mà dong thuyền “hồi cố quận”. Khi về lại quê cũ, tía cô có vợ, có con và vẫn làm ruộng cho chủ điền. Đến năm 1940, giặc giã nổi lên, thiên tai làm mất mùa, không đóng được lúa cho chủ điền, họ kê biên nhà cửa điền sản. Sống không nổi, nửa đêm tía cô phải vào ăn trộm chiếc xuồng của chính mình rồi chở vợ con với ý định xuôi về Bạc Liêu mà tìm cha mẹ anh em. Thế nhưng, xuồng đến Đại Ngãi thì tía cô bệnh nặng rồi qua đời, má cô phải bửa chiếc xuồng ra mà đóng tạm cái quan tài để chôn tía cô. Đó là tài sản duy nhất của gia đình. Từ đó má cô phải bươn chải làm mướn làm thuê nuôi mấy đứa con là em anh Hai Kiểng và một người em chồng là cô. Một thời gian sau, một người em trai của anh Hai Kiểng vì thiếu ăn, không có thuốc trị bệnh nên qua đời. Thấy cháu chết mà không có áo mặc, cô Sáu Tài lúc đó 16 tuổi, biết mắc cỡ rồi, cởi cái áo duy nhất để mặc cho cháu để cháu được ấm mà về với ngàn thu, còn cô thì phải trốn vào đống rơm. Kể từ đó mất liên lạc với ruột thịt ở Bạc Liêu 80 - 90 năm trời.
(còn tiếp)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận