Một trang đời mở ra
(tiếp theo số báo 3389)

Minh họa: P.B.T
Đoạn sau này ba tôi có lần kể nên tôi có thể chắp nối với câu chuyện của cô Sáu Tài: Gia đình 8 anh em nhưng chỉ có 2 trai. Ông bác Tám Cúc quày lại nơi cũ thì ông nội tôi là ông Phan Văn Khá phải lãnh trọng trách gánh vác việc nuôi cha mẹ già. Và khi ông bà cố tôi qua đời thì ông nội tôi dẫn vợ và 5 đứa con đi về vùng Vĩnh Trạch ngày nay mà khai phá. Lúc đó ba tôi mới 15 tuổi, mỗi lần đi dọn rừng, ông nội tôi phải đóng cái chòi trên trảng ba cây mắm cho chị em ba tôi trú, vì sợ cọp tha. Và cái mảnh đất đầu vàm Thào Lạng với 30 công, gồm đất cấy lúa, lá dừa nước và rừng chồi ấy đã nuôi sống 3 thế hệ dòng họ Phan ở vùng Vĩnh Trạch lớn lên, nên người.
Ông cố tôi tên Phan Văn Hà, cái tên ấy cho tôi một linh cảm rằng ông là người gốc Huế. Cũng giống như nhiều người thời đó, ông cố tôi đã hòa nhập với đoàn quân Nam tiến hồi thế kỷ 17 mà xuôi về Sài Gòn Bến Nghé, Đồng Nai, Tiền Giang để xây dựng nên Cù Lao phố và vùng văn minh miệt vườn vang danh.
Còn từ Tiền Giang ông xuôi về Bạc Liêu của miệt Hậu Giang hồi nào thì dòng họ tôi không ai còn nhớ, nhưng theo lời kể của cô Sáu Tài, qua thông tin từ ông bác Tám Cúc thì tôi nghĩ đó là thời điểm giặc Pháp đánh chiếm Nam kỳ vào thế kỷ XIX mà Nguyễn Đình Chiểu viết:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Phải nói rằng người Tiền giang về Hậu Giang khẩn hoang lập nghiệp đã có quá trình 300 - 400 năm. Đó là công cuộc Nam chinh không ngừng nghỉ, vì Hậu Giang xưa được mệnh danh là “vùng đất hứa”. Đất của hy vọng theo cái nghĩa là “đất rộng người thưa, làm chơi ăn thiệt” và cũng là đất mang một ý nghĩa khác - đó là đất của rừng rậm, hoang vu, thiếu sự kiểm soát của công quyền thế nên những người “du thủ du thực”, kẻ tội đồ, người phản ứng triều đình… tìm về đây rất dễ trốn tránh, đủ điều kiện kết bè kết đảng.
Thế nhưng, có mấy làn sóng di dân lớn, với quy mô xáo trộn dân cư ĐBSCL ngày nay, đó là: Đợt thứ nhất khi giặc Pháp đánh chiếm Nam kỳ mà tôi kể trên. Đợt thứ hai vào năm Thìn bão lụt (1904) thiên tai làm mất mùa, rồi nạn cào cào châu chấu tàn phá hoa màu 2 - 3 năm liền gây nên cảnh đói khổ ở vùng Tiền Giang. Đợt thứ ba là sau khi người Pháp hoàn chỉnh hệ thống kênh đào với quy mô lớn ở miệt Hậu Giang, tạo ra cho vùng đất này một sức cám dỗ mới, và sau cùng phải kể đến làn sóng di dân năm 1978, cũng do vùng Tiền Giang thiên tai làm cho mất mùa.
Có lẽ không đâu trên thế giới này có một cuộc đi chinh phục những miền đất mới đặc biệt như ở miền Tây Nam Bộ. Nó đặc biệt là vì đội quân ấy đa phần là tầng lớp sát đáy xã hội, nước mắt của họ tưới dài theo đường đi, khoác lên mình kiếp đời tha phương cầu thực, cơ nhỡ, lạc loài. Nó đặc biệt là bởi vì cuộc trường chinh, chinh phục đất phương Nam ấy kéo dài 300 - 400 năm, với một quân số có thể tính đến hàng triệu người. Và nó di chuyển bằng một hình thức hết sức lạ lẫm. Không có người chỉ huy, vì nghèo đói mà đi, phổ biến là năm, ba dân công rủ nhau lên chiếc xuồng mui kèm đợi mùa gió chướng về, lúc mà đất trời Hậu Giang ngập ngụa hương lúa chín để xuôi về phương Nam gặt mướn. Cũng có khi trên chiếc ghe ấy chở theo một ít trái cây miệt vườn rồi tham gia buôn bán lúc đợi nước ở ngã năm, ngã bảy… để làm sở phí đi đường. Sau đó hình thành những chợ nổi trên sông đặc biệt của miệt Hậu Giang. Thế cho nên người Hậu Giang gọi họ bằng nhiều cái tên “bà con miệt vườn”, “dân gặt mướn” hay “khách thương hồ”… Dù tên gì đi nữa, thì chính họ đã trở thành “chiến sĩ” tiên phong đi “cặm dùi” nơi đất hoang làm cho đất nước rộng dài.
Không chỉ có dân Tiền Giang và Hậu Giang khẩn hoang, mà khúc hát hành phương Nam là một dòng chảy lịch sử bền bỉ triền miên mà đầy vạm vỡ của dân tộc ta vào hơn 500 năm trước. Các dòng sử liệu cho biết rằng: năm 1679, Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Địch là quan tướng nhà Minh (Trung Quốc), không đầu phục nhà Thanh đã đưa chiến thuyền và gia quyến hơn 3.000 người sang nước ta đầu phục, chúa Nguyễn chấp thuận và cấp sắc cho vào khai phá, lập nghiệp ở Biên Hòa, Mỹ Tho. Hai nhóm người này đã cùng với người Việt xây dựng nên Cù Lao Đại Phố. Đến năm 1708, Mạc Cửu dâng vùng Man Khảm cho Chúa Nguyễn Phúc Khoát và chúa Nguyễn nhận thêm vùng đất Ba Thắc để rồi lập ra Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Sóc Trăng, Bạc Liêu) thì toàn bộ vùng Nam Bộ ngày nay đã chính thức thuộc về quốc thổ Việt Nam. Các chúa Nguyễn xác lập cương thổ bằng việc tổ chức các đơn vị hành chính cai quản. Lệ khẩn hoang của triều đình lúc bấy giờ đặt ra là: từ binh sĩ đến dân thường và người tù tội, ai muốn về phương Nam khẩn hoang sẽ được cấp tiền và phương tiện. Đất đã xin khẩn hoang mà chưa khẩn hoang, chưa làm ruộng, trốn thuế sẽ bị giao cho người tố giác làm chủ, ghi vào sổ bộ. Đất trước đó canh tác, có đóng thuế nhưng trải qua 3 năm bỏ hoang sẽ bị phạt tiền 3 quan mỗi mẫu. Đất bị triều đình tịch thu là đất xin khẩn hoang mà không khẩn hoang, không đóng thuế.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận