Thứ bảy, 20-12-25 13:41:51
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Một trang đời mở ra

Báo Cà Mau

(tiếp theo số báo 3392)

Khẩn hoang Nam Bộ. Ảnh: T.L

Sau một thời gian đào những con kênh không lâu, người Pháp bắt đầu tiến hành công cuộc “lấy đất ấy mà đắp lộ” theo lời nói của quan đầu tỉnh. Ví như năm 1901 triển khai làm lộ Bạc Liêu - Cà Mau. Hồi đó không gọi là Quốc lộ mà gọi là lộ Đông Dương. Ngày nay nó là Quốc lộ 1A, chỉ có vài đoạn như ở chợ Láng Tròn, Hộ Phòng được làm mới nên nó chệch đi.

Triển khai công cuộc đào kênh, làm lộ có hai vấn đề cần nói: Chính quyền ủng hộ, nuôi dưỡng giới tư bản công nghiệp của Pháp, nhưng lại bóc lột sức lao động dân bản xứ một cách thậm tệ.

Năm 1901 lộ Bạc Liêu - Cà Mau làm từng khúc, chính quyền chủ trương lộ ngang tổng nào thì tổng ấy làm, rồi huy động toàn bộ dân đinh của tổng ấy thực hiện việc đắp lộ. Luật của người Pháp lúc bấy giờ là mỗi dân đinh trong độ tuổi phải làm xâu (nghĩa vụ công ích) 2 ngày công trong một năm. Thế nhưng, khi làm xâu đắp lộ Bạc Liêu - Cà Mau, họ bắt dân làm khối lượng công việc đến 2 tháng chưa chắc đã xong. Đó là bắt mỗi người đắp 14m lộ chiều dài, chiều cao 0,5m và phải hầm 7m3 đất đỏ để phục vụ việc trải đường nhằm để đi mùa mưa. Đã thế, hương chức làng còn bắt dân đinh làm nhiều hơn khối lượng nêu trên. Ví như làng Vĩnh Mỹ, dân đinh bị bắt đắp đến 28m lộ mà không cho họ thêm một đồng nào. Chính quyền chỉ phát rượu công xi gọi là “thức uống hợp vệ sinh”. Rượu này lấy từ công xi rượu Bạc Liêu do đại điền chủ Trần Trinh Trạch, cha đẻ của Công tử Bạc Liêu làm quản đốc. Lúc bấy giờ dân làm xâu rất khổ, dân làng Hòa Bình phải bơi xuồng xa hơn 10 cây số, tận đồng chó ngáp của Phước Long mà lấy củi tràm về để hầm đất đỏ, chủ tỉnh khoe đã huy động mỗi ngày từ 10.000 - 12.000 dân làm xâu.

Năm 1825 mùa màng thất bát nặng nề, dân vô cùng đói khổ, cai tổng Thạch Hưng đã làm một báo cáo gởi lên Thống đốc Nam kỳ: “Bây giờ dân không biết đi đâu hết vì nội tổng tôi không có lúa, nó đi kiếm ăn đỡ đói… ”.

Từ lời than vãn này mà 11.484 dân bộ được giảm thuế thân để tiếp tục đào kênh đắp lộ Bạc Liêu - Cà Mau. Dân làng Hòa Bình - Vĩnh Mỹ đói khổ quá nên đình công, kéo lên tòa bố Bạc Liêu để khiếu nại rằng hương chức hội tề bắt họ làm nhiều hơn luật định.

Nói cho công bằng, công cuộc đào kênh, đắp lộ nêu trên đã thúc đẩy nhanh việc khẩn hoang ở Bạc Liêu - Cà Mau. Đến năm 1927 diện tích đất trồng lúa đã chiếm 34% so với diện tích tự nhiên. Trong khi đó vào 30 năm trước nó chiếm chưa đầy 5%. Lúa gạo bán ra khỏi tỉnh vì lẽ trên mà tăng nhanh. Năm 1893 bán ra được 316.000 tạ gạo, đến năm 1921 bán ra đến 2.733.330 tạ. Diện tích canh tác năm 1927 tăng so với năm 1926 là 72.440 mẫu.

Những số liệu trên cho chúng ta biết tình hình trưng khẩn đầu thế kỷ XX ở Bạc Liêu - Cà Mau là rất sôi động và tiến triển nhanh chóng. Và chúng ta phải hiểu rằng công lao ấy thuộc về những người nghèo khổ đi khẩn hoang lập nghiệp. Bởi họ là những người trực tiếp khẩn hoang.

Dân tứ xứ kẻ trước người sau về Bạc Liêu ngày một nhiều thêm. Trước đó, khi anh em Tây Sơn mà trực tiếp là Nguyễn Nhạc đã tấn công Cù Lao Đại Phố, hòng cắt đi hậu phương lớn của chúa Nguyễn, người Hoa chạy về Bạc Liêu rất đông và trước đó nữa, triều đình Mãn Thanh thất bại trong cuộc chiến thuốc phiện. Sự thất bại ấy có tác động sâu sắc đến đời sống Nhân dân, nhiều thợ thủ công phá sản, nông dân mất mùa, mất đất, nhà cửa… tạo ra một làn sóng dân Trung Quốc rời quê hương đi khắp các nước mà cầu thực. Trong số đó có rất nhiều người làm dân đinh cho thương thuyền Hải Nam chở đồ gốm, vôi ăn trầu… đến Bạc Liêu bán và mua lại sáp ong, bong bóng cá đường, heo con, cá khô… Những dân đinh này ở lại Bạc Liêu khi thương thuyền Hải Nam cập bến…

Người Hoa về Bạc Liêu đông đến nỗi đầu thế kỷ XX chợ Bạc Liêu giao tiếp buôn bán bằng tiếng Hoa. Đông đến nỗi Thiên Địa Hội đặt ra yêu sách với Thống đốc Nam kỳ đòi thành lập khu tự trị người Hoa ở Bạc Liêu. Đến năm 1916 ghi trong bộ tỉnh Bạc Liêu có 97.000 dân thì người Minh Hương chiếm đến 13.976 người, cộng thêm 5.916 người Hoa nữa. Một điều mà chúng ta nên nhìn nhận là họ tổ chức buôn bán, có tính chất quyết định hình thành chợ Bạc Liêu.

Còn người Khmer Nam Bộ cũng do loạn lạc mà kéo thêm về Bạc Liêu từ tỉnh Trà Vinh, An Giang khá đông. Năm 1882, Lamothe De Carrier cho điều tra dân số thì dân số Khmer chiếm số đông, chỉ sau người Việt.

Lực lượng khẩn hoang chủ yếu vùng Bạc Liêu là 3 dân tộc anh em Kinh - Hoa - Khmer. Họ đã chung lưng đấu cật thành một truyền thống tốt đẹp lâu đời.

Và có một điều trớ trêu rằng, thành quả khẩn hoang nhanh chóng ở miệt Hậu Giang nói chung và Bạc Liêu nói riêng, lực lượng chiếm số đông, trực tiếp khai hoang, sản xuất, chịu nhiều cực khổ nhất lại không được hưởng, mà miếng “mứt gừng” thơm tho, ngọt ngào ấy lại vào tay chính quyền Pháp, tay sai của họ và giới điền chủ lớn.

(còn nữa)

Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Biểu tượng hoa cau trong văn hoá Khmer

Hoa cau, biểu tượng thiêng liêng trong hôn lễ của người Khmer, được xem là thước đo phẩm hạnh, phản ánh giá trị văn hoá độc đáo.

Trao thưởng các tác giả đạt Giải thưởng Văn học, Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển lần thứ V

Chiều 12/12, UBND tỉnh Cà Mau tổ chức Lễ trao Giải thưởng Văn học, Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển lần thứ V. Dự lễ có đồng chí Phạm Văn Thiều, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh và đồng chí Ngô Vũ Thăng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh.

Điểm đến giàu tiềm năng du lịch văn hoá - tín ngưỡng

Toạ lạc tại xã Hưng Hội, chùa Soryaram (chùa Giữa) đã tồn tại gần một thế kỷ và vẫn gìn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp kiến trúc cổ truyền, lộng lẫy. Không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo của đồng bào Khmer, chùa còn là không gian văn hoá đặc sắc, hội tụ nhiều giá trị truyền thống, tạo tiềm năng lớn để phát triển du lịch văn hoá - tín ngưỡng.

Tục thờ Môn thần của người Hoa

Trong tín ngưỡng dân gian của cộng đồng người Hoa tại Cà Mau, tục thờ Môn thần là nét văn hoá đặc sắc, gắn liền với quan niệm về sự an cư, bảo hộ và trấn áp tà khí.

Sắc màu văn hoá Khmer qua Lễ Cầu an

Hằng năm, sau Tết Chôl Chnăm Thmây, đồng bào Khmer tại các phum - sóc trên địa bàn tỉnh Cà Mau lại hân hoan tổ chức Lễ Cầu an (Panh Kom San Srok), một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng nhất.

Bồi dưỡng kiến thức văn hoá DTTS cho đội ngũ nhân lực trẻ

Sáng 7/12, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp Trường Đại học Bạc Liêu tổ chức hoạt động tham quan thực tế và giao lưu kỹ thuật trình diễn nghệ thuật Khmer tại chùa Xiêm Cán (phường Bạc Liêu).

Đánh thức tiềm năng du lịch từ bánh dân gian người Hoa

So với các dân tộc anh em khác, cộng đồng người Hoa tại Cà Mau sở hữu nhiều nghề truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa, trong đó, nghề làm các loại bánh dân gian có nguồn gốc từ Trung Quốc. Những loại bánh này không chỉ mang hương vị đặc trưng mà còn hàm chứa nhân sinh quan sâu sắc, thể hiện ước vọng về trường thọ, phúc - lộc - an khang.

Sắp xếp, tinh gọn các tổ chức văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số

Sáng 6/12, tại tỉnh Cà Mau, Hội Văn học nghệ thuật (VHNT) các dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam tổ chức Hội thảo sắp xếp, tinh gọn, hợp nhất các tổ chức VHNT các DTTS, thống nhất trong đa dạng.

Quảng bá quê hương tươi đẹp

Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ðông Xuân (nghệ danh Nguyễn Xuân) đến với nhiếp ảnh từ năm 1984, thời kỳ còn sử dụng máy ảnh chụp phim đen trắng. Từ năm 1987-1990, anh là bộ đội tình nguyện làm nghĩa vụ quốc tế, phóng viên chiến trường (chuyên đề tài liệu, tư liệu) ở nước bạn Campuchia, Sư đoàn 330 thuộc Mặt trận 979, Quân khu 9.

Lan toả văn hoá Khmer trong học đường

Giữa trung tâm xã Đá Bạc, nơi có hơn 700 hộ đồng bào Khmer sinh sống, Trường Phổ thông dân tộc nội trú - THCS Danh Thị Tươi trở thành điểm sáng trong hành trình gìn giữ và lan toả giá trị văn hoá truyền thống. Là trường nội trú THCS duy nhất của tỉnh Cà Mau dành cho học sinh Khmer, nơi đây không chỉ truyền đạt tri thức mà còn nuôi dưỡng bản sắc dân tộc, để văn hoá Khmer được tiếp nối bằng sự trân trọng và tự hào.