(tiếp theo số báo 3394)

Tá điền đong lúa ruộng cho chủ điền. Ảnh: T.L
Thế rồi họ thất vọng ê chề bởi ngoài việc chịu đựng áp bức bất công thì đất mới là một vùng đất đầy xung khắc dữ dội, thể hiện qua những câu ca nghe mà nổi da gà:
“Xứ nào kinh cho bằng xứ Cạnh Đền
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh tợ bánh canh”.
Hoặc:
“Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma”.
Vâng, đất mới là đất của rừng thiêng nước độc và đầy sương lam chướng khí, muỗi mòng đỉa vắt vô số kể, nhiều trang sử ghi lại rằng, có lúc dịch bệnh hoành hành, thuốc men không có, chủ yếu là trị theo dân gian và mấy ông lang vườn, thầy pháp…, người chết như rạ, nhiều làng dân tự đốt nhà bỏ cả làng mà kéo đi nơi khác ở trong nước mắt. Dân khẩn hoang từ nơi xa xôi đến, từ chiếc ghe cui, mui kèm bước lên bờ là bước vào cái vòng đời làm thuê của kiếp tá điền, đất là đất của người ta, họ chỉ cho ở tạm, không được trồng cây lâu năm, khi người thân chết phải mang trầu rượu đến lạy địa chủ mà xin một mảnh đất để chôn thây. Họ mướn ruộng địa chủ làm, hồi đó năng suất lúa chỉ bình quân 10 giạ một công, tùy vào nhân lực của từng gia đình mà thuê 20 - 30 công làm rồi mà phải đóng lúa ruộng, trả nợ vay, số còn lại đa số chỉ đủ ăn cái tết là hết. Ra giêng phải đi vay mà sinh sống cho qua mùa giáp hạt. Đó là cái vòng luẩn quẩn của kiếp con người nơi đất mới. Vào nửa đầu thế kỷ XX, trong dân gian tồn tại những thành ngữ nói về kiếp sống của nông dân Hậu Giang như sau: “Nhà đá, nhà đạp”. Đó là một loại nhà cất tạm trên bờ kênh vì phải “ăn nhờ ở đậu” trên đất địa chủ, nó được dựng lên từ cây rừng như bần, mắm, sú vẹt và lợp lá dừa nước. Trong nhà là vợ chồng con cái nheo nhóc và không có giường ngủ. Đến bữa nấu cơm, gia chủ ra cây rơm sau hè rút bó rơm vào chụm lửa trong cái cà ràng để rồi khói bay mù mịt, khói làm nên một thứ khói lam chiều của làng quê, làm thổn thức đời quê. Loại nhà này mà dùng chân đạp một cái thì đổ lăn kềnh, vì thế mà người đời lúc bấy giờ có thành ngữ “nhà đá, nhà đạp”. Vài chục căn nhà như thế hình thành một xóm nhỏ nằm dài theo bờ kênh. Ở đó có một đời sống mà trẻ con xanh xao, chân cẳng “mốc cời mốc thích”, bệnh tật xảy ra không có thuốc men và chúng cũng không được học hành vì không có trường học. Chủ yếu là học mấy ông đồ Nho, đi dạy học dạo…
Thành ngữ tiếp theo là “ngủ mùng gió, mùng nước”. Dân nghèo đi gặt, cấy thuê hoặc lên bưng nhổ bàng về đan nóp, đang đệm kiếm miếng ăn hoặc cắm câu giăng lưới… một chuyến đi như thế cả mấy ngày trời và họ cư ngụ giữa đồng rậm rạp đầy đưng lác, đầy muỗi mòng. Muỗi vốn thính hơi người, ở chỗ nào mà lâu một tí là chúng bu đến như rải trấu. Thế là dân ta sáng tạo ra cách ngủ một chút, chưa thẳng giấc là phải chống xuồng đi chỗ khác ngủ tiếp để chạy muỗi, thế là họ gọi “ngủ mùng gió”. Còn ngủ mùng nước là người ta nhận xuồng chìm, rồi nằm trong nước, chỉ chừa hai lỗ mũi lên để thở mà ngủ nhằm trốn muỗi, thế nên gọi là “ngủ mùng nước”.
Còn một cách ngủ nữa là ngủ mùng nếp, ấy là dân đi đạp rơm, đạp lúa mướn… không có mùng ngủ phải chui vào đống rơm lúa nếp mà ngủ, hòng tránh muỗi.
Thời đó vải vóc cực kỳ khó khăn, tá điền phải mặc “quần bô áo bố”. Việc này, thuở sinh tiền ba tôi kể: Vào những năm 1940 - 1945 là thời kỳ quần áo mùng mền là nỗi khổ sở cao điểm của nông dân nghèo, lúc đó ba tôi khoảng 25 - 27 tuổi gì đó, không có quần áo mặc, gia đình phải đi vô chành lúa của mấy ông chệt mua loại bao bố tời (dệt bằng cây bố, ngoài Bắc gọi là cây đay) đem về cắt thành quần áo mà mặc. Ba tôi bảo mặc thứ quần áo này để đi làm ruộng chứ không dám đi chơi, vì mắc cỡ. Có những người không tiền mua bao bố còn dùng đệm bàng cắt làm quần áo mặc giống như cái khố chuối của “Trần Minh khố chuối” thời xưa. Các loại quần áo này phơi rất lâu khô, hễ trời mưa dầm là nó ẩm rồi sinh chí, rận… dịch chí, rận bùng phát, nhiều cô gái phải cạo bỏ mái tóc dài đen mượt vì chí, rận làm ghẻ lở khắp đầu. Nhiều gia đình vợ chồng chỉ có một cái quần, phải luân phiên nhau mà mặc đi xóm. Có bữa không có quần mặc, khách đến nhà phải chui vào buồng mà tiếp chuyện với khách bên ngoài. Đàn ông không có quần mặc đi xóm bằng cách lội xuống kênh, lấy nước che thân, đến nhà hàng xóm nói chuyện vọng lên rồi về.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận