(tiếp theo số báo 3399)
Tại làng tôi và có thể nói rằng hầu như tất cả các xóm làng nằm theo trục kênh rạch, ngã ba vàm xáng… của Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá đều có ghe cuôi, ghe tam bản, mui kèm, lợp bằng lá dừa nước cập bến. Mùa gặt đông ken, gần như nhà nào làm ruộng cũng đều chứa dân gặt mướn trong nhà. Đó là những người độ tuổi lao động, cũng có ghe chở cả gia đình, với đầy đủ nam phụ lão ấu. Sắc phục thường thấy của họ là bộ đồ bà ba đen hoặc nâu, trên vai là cái vòng gặt truyền thống và một cái “bịt bậu” đựng quần áo. Có nhiều người trung niên trở lên thì bới tóc củ tỏi, theo đạo Cao đài. Hồi thập niên 60 - 70 của thế kỷ trước, họ chính là lực lượng chủ lực thu hoạch lúa cho miệt Hậu Giang, với những kỹ năng chuyên nghiệp, năng suất gấp đôi người sở tại. Sau này, cũng chính họ là người mang kỹ thuật cắt lúa thấp, bằng lưỡi hái, khác với kiểu gặt truyền thống địa phương, du nhập vào miệt Hậu Giang.

Ảnh minh họa: B.T
Khách thương hồ buộc dây xuồng dưới bến sông của ngôi nhà mà mình dự định ở suốt mùa gặt rồi khiêng cái mui kèm lên bờ, cạnh đống rơm làm chỗ trú ngụ, rồi hò:
“Ngồi buồn vọc nước giỡn trăng
Nước xao trăng dợn biết rằng về đâu?”.
Hát thế là hát cho thân phận cuộc đời nổi trôi trên sông nước, của đời thương hồ thôi, hoặc hát về cảnh đời của dân gặt mướn sau này, chứ thật ra tất cả bà con miệt vườn về đây đều có bến đậu. Hồi đó nông dân Hậu Giang làm ruộng rất nhiều mới sống nổi, vì năng suất thấp, đặc biệt là những điền chủ manh (ruộng nhỏ, manh mún do tự mình khai thác) nên không tự gặt lúa của gia đình, thợ gặt địa phương thì lại bước vào vụ “đông ken”, bằng để lâu thì lúa rục. Thế là từ rất xa xưa, người Hậu Giang có cái nếp rất ổn định là “nuôi công gặt”, theo cái nghĩa là nuôi chứa trong nhà như khách. Tối thì giăng mùng cho ngủ nhà trước, trên bộ ngựa gõ, ngày thì nấu cơm cho ăn kể cả lúc lúa chưa chín, chờ gặt. Vào mùa gặt, cứ gà gáy chập đầu là chái bếp nhà quê chộn rộn nổi lửa nấu cơm gặt. Rồi mùi mắm đồng, mùi cá kho… trộn lẫn với mùi rơm rạ của mùa lúa mới dậy lên khắp làng quê trong buổi sáng tinh sương. Nó xua tan cái không gian khói lửa mịt trời và khét lẹt của mùi đạn pháo, cho đồng quê thanh bình, cho hồn quê đau đáu, làm nhức nhối một đời những đứa con quê.
Đàn bà con gái nông dân thời ấy chỉ có việc nấu cơm gặt là đã mệt đừ. Mâm cơm dọn ra dài dằng dặc, phục vụ mấy chục công gặt. Sau đó thì chuẩn bị cơm trưa để gánh lên đồng xa bằng một bữa cơm dọn trên bờ mẫu. Đó là bữa cơm giữa trời xanh ngăn ngắt và đồng vàng rưng rức. Dân gặt ăn đến 7 - 8 chén cơm. Gia chủ thì rất vô tư, thời đó thứ duy nhất tương đối khó khăn là gạo, nhưng đây là mùa thu hoạch, chỉ cần giã một cối gạo là dân gặt mướn ăn mấy ngày trời. Mà việc giã gạo bằng cối chày đã có dân gặt mướn giúp cho vào buổi tối, trong những đêm trăng sáng, nơi hẹn hò của trai gái làng và khách thương hồ. Ở đó có ai cất lên điệu hò sông Hậu nghe chơi vơi dìu dặt trên đồng.
Còn những thứ còn lại của bữa cơm gặt thì không phải lo, đây là mùa nước rút, tôm, cá kéo về lũ lượt trong đìa bàu. Nhà nông cũng thế, cái nếp không có chợ và không đi chợ, tất cả là “cây nhà lá vườn” mà bây giờ gọi theo ngôn từ mới là “tự sản tự tiêu” đã hình thành ổn định từ rất xưa ở miệt Hậu Giang này, nhà nào cũng đào đìa để dự trữ cá mắm mà ăn suốt năm. Có nhà kha khá thì nuôi vịt đẻ cả ngàn con, ngoài đồng thì thiên nhiên hào phóng, đất rộng người thưa, ra sau hè là kiếm được cái ăn. Thế nên bữa cơm nuôi dân gặt mướn miệt vườn thức ăn là vấn đề không phải bận tâm. Thiên nhiên hào phóng, con người có tố chất tình nghĩa, rộng rãi, nó góp cho Hậu Giang cái tư chất hào hiệp nghĩa tình ngày thêm đậm đặc.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận