(tiếp theo số báo 3340)

Ảnh minh họa: Internet
Nhà tôi xưa là bến đậu của 4 - 5 gia đình bà con miệt vườn. Đó là cậu Út quê ở Vĩnh Long, chú Ba Tre quê ở Tân Châu, rồi cánh bên bà nội tôi ở Cần Thơ cũng xuống. Ngoài những hộ kia thì gia đình chú Ba Tre là dân gặt mướn bất đắc dĩ. Chú Ba vốn làm nghề nhuộm và buôn bán lụa Tân Châu mà ngày trước nông dân gọi là quần lãnh Mỹ A. Năm 1969 - 1970 gì đó, Lon Nol đảo chính Sihanouk, cũng không biết vì sao Việt kiều Camphuchia bị giết rất nhiều. Thây người được bỏ vào bao bố tời thả trôi dập dìu trên sông Tiền (đoạn dọc ranh giới giữa Tân Châu - Hồng Ngự). Sợ quá gia đình chú Ba xuống ghe, bồng chống về xứ tôi vừa bán quần lãnh Tân Châu, vừa lên bờ gặt mướn. Chú Ba không phải là người Chăm, nhưng thỉnh thoảng chú vận xà rông làm cho lũ trẻ chúng tôi sợ xanh máu mặt. Vì trước đó bọn tôi được nghe người ta đồn rằng, chà và vận xà rông, xuống bán quần lãnh hay bắt con nít. Nếu mua vải mà không trả tiền thì mấy ổng yếm bùa sưng bụng mà chết. Câu chuyện kỳ bí ấy cứ ám ảnh chúng tôi suốt thời thơ ấu. Mãi đến sau này, đi làm báo, có dịp về thăm làng Chăm ở An Giang, nhìn con gái Chăm vận xà rông mặt đẹp như chị Hằng Nga thì mới hết sợ.
Những gia đình này xuống nhà tôi mà giống như về ngôi nhà thứ hai của họ. Họ được bố trí ngủ từ nhà trước đến nhà sau lẫn chái bếp. Chật quá, đám thanh niên, con nít cứ xuống chuồng trâu, trại xuồng mà giăng mùng ngủ. Họ tự tiện xúc gạo nấu cơm, ra đìa bắt cá ăn. Thấy nhà dơ thì quét, thấy bờ ruộng bị soi mọi thì đắp… mà họ làm tự nhiên như công việc nhà mình, không ai sai ai bảo. Gia chủ thì mặt mày hớn hở như ngày hội, không thấy một chút phiền hà trên khuôn mặt, bữa cơm dọn ra tiếng cười nổ như pháo tết. Cứ anh anh em em, con con chú chú, như người thân đi xa lâu ngày trở lại. Đã thế, thấy chú thím Ba còn gặt ở ngoài đồng trong khi các gia đình khác đã gặt xong công gặt khi trời đứng bóng (khoảng 12 giờ trưa), ba tôi xăng xái, quảy vòng gặt lội lên gặt giúp chú Ba. Hôm nào rảnh việc ông quảy xấp vải Mỹ A qua xóm ông Tấn, Thào Lạng bán giúp chú Ba. Còn má tôi tối nào cũng đốt đèn rồi cùng làm mắm, làm khô với những gia đình gặt mướn mà họ tranh thủ bắt cá cạn trong lúc gặt. Bà bảo, để gần tết họ về quê có cái mà ăn tết. Hồi đó đất tuy có chủ nhưng cũng còn hoang hóa nhiều, vì thiếu người làm, vì chiến tranh, ba tôi cho mượn lúa, thật ra lúa này ông cũng đi vay của anh Ba Ngàn, cháu gọi ông bằng cậu, để chú Ba, cậu Út sang đất mà làm ruộng đỡ phải vất vả trải đời gặt mướn. Cậu Út, chú Ba đều có mỗi người cả chục công đất, cánh mấy cậu, cháu bà nội tôi cũng thế.
Sau giải phóng năm 1975, chú Ba, cậu Út bán ruộng để đi về quê cũ vì trên ấy cũng có nhà, có đất. Thế nhưng cứ đến mùa gặt là họ xuống, không sai một năm, cứ như con nghiện, họ bảo gió chướng chớm mùa chợt đến là ngứa ngáy, chịu không nổi phải xuống ghe dong buồm mà xuôi về Hậu Giang. Người ta nói có nền văn minh sông nước Nam Bộ, thế nên nó có cái máu mê lang bạt kỳ hồ trên sông nước, cái máu ấy nó say, nó đắm, bởi nó ăn sâu vào huyết quản của nhiều thế hệ dân châu thổ sông Cửu Long. Nói đến đây mới nhớ, hồi ông bà nội tôi còn sống, thế hệ trước của cậu Út và mấy cậu bên bà nội tôi cũng đã xuống đây ở gặt mướn rồi. Thế nên nó “dây cà ra dây muống”. Bên bà nội tôi dưới sự cưu mang, đùm bọc của ông nội tôi cũng đã có mấy gia đình về hẳn dưới này ở, họ tậu trâu, tậu đất, góp phần cùng với bên ông nội tôi làm cho dòng họ tôi giờ ở xã Vĩnh Trạch đông đúc, không sao đếm xuể.
Cậu Út và chú Ba Tre bảo: “Hễ đến mùa gặt là tụi tôi nhớ anh chị Sáu với mấy đứa nhỏ không sao chịu nổi”. Rồi mắt họ đỏ hoe, lại có mấy giọt nước mắt của thím Ba và mợ Út. Họ kể, chắc là trời se duyên, cứ mỗi năm một lần, mà mỗi lần đến 3 - 4 tháng và cả mấy chục năm nay năm nào cũng ăn cơm anh chị Sáu. Nhớ cái “đận” sau tiếp thu, gia cảnh anh chị khổ sở vô cùng, phải ăn cơm độn khoai, vậy mà vẫn cưu mang đùm bọc chúng tôi. Nhớ hồi mới mướn ruộng, anh chị Sáu chở cây lá lên cất chòi cho, lại cho lúa giống làm mùa rồi cho mượn trâu cày ruộng, cái nghĩa này tới chết tụi tôi nào đâu dám quên.
Giờ đây, chú thím Ba, rồi cậu Út và ba má tôi đều qua đời nhưng câu chuyện của họ thì tôi không thể nào quên, bởi vì nó ăn sâu trong tâm khảm. Không biết vì sao đời càng nghèo thì lòng ta càng nhớ, càng thấy quý những gì tốt đẹp. Mùa gặt mướn xưa không chỉ là cuộc hạnh ngộ của nghĩa tình người lớn mà nó cũng là dịp để bọn trẻ gặp lại trong niềm vui náo nức. Tôi thì vui vì được ăn trái cây miệt vườn, được chơi với đám con chú Ba, cậu Út. Đó là những đêm trăng sáng, chúng tôi ra đồng chơi trò “cút bắt”, đánh hưng… quanh đống rơm. Lớn lên một chút thì chúng tôi bắt cá đồng nấu cháo dừa khô và lớn thêm một tí nữa thì chúng tôi hẹn hò. Trong đám người về gặt mướn có con Út Mén, nó ốm tong và cao lêu khêu, có lần tôi núp trong đống rơm rồi nhát ma, làm nó sợ đến xanh máu mặt. Ba năm sau nó theo ghe thương hồ trở xuống, nó trổ mã con gái đầy đặn và đẹp lạ đẹp lùng. Tôi ngẩn ngơ, thẫn thờ gọi nó là cô Út Lan. Năm đó cuối mùa gặt Út Lan về, tôi ngọng nghịu cất lên câu hò sông Hậu:
“Em về Giồng Dứa, qua truông
Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ ai”.
Rồi năm tháng qua mau, cuộc đời chìm nổi, không gian thì xa xôi cách trở chúng tôi lạt phai những cảm xúc đầu đời. Mỗi đứa đều có gia đình riêng. Giờ đây năm nào Út Lan cũng đổ đường từ Tiền Giang về Bạc Liêu vía bà Nam Hải và lần nào cũng gọi tôi ra uống cà phê. Tôi th́ì ngượng ngùng, còn Út Lan ném cho tôi cái nhìn tinh quái.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận