(tiếp theo số báo 3402)
Đã là người có văn hóa thì không thể “mới chuộng cũ vong”. Đối với người sở tại, bản quán trên đất mới này, người Hậu Giang cũng có những mối quan hệ, cách ứng xử tình nghĩa, hào phóng ổn định lâu đời, trở thành nếp sinh hoạt của xóm, lệ của làng. Nó làm cho quê hương Hậu Giang chan hòa tình cảm, an lành trong cuộc sống để mà chế ngự thiên nhiên khắc nghiệt, xã hội loạn lạc, đau thương với những cuộc chiến tranh liên miên… nhằm trụ vững để gìn giữ cương thổ của đất Việt.

Ảnh minh họa: Internet
Hồi tôi còn bé, vào thập niên 60 của thế kỷ XX, đất Hậu Giang còn rất nghèo nàn, lạc hậu. Lúc này chính quyền Mỹ tăng cường viện trợ cho miền Nam, nhưng sự viện trợ ấy phục vụ cho ý đồ quân sự của họ, vì thế mà chỉ mang tầm ảnh hưởng đến các đô thị, còn làng quê Hậu Giang vẫn là bức tranh tuy có nên thơ nhưng buồn hiu hắt và nhuộm màu đau thương. Vẫn như từ thuở rất xa xưa, cái thuở mà ông cha những người đi khẩn hoang chọn đất để ở nhằm thuận tiện việc tưới ngọt rửa mặn cho nghề trồng lúa và đi lại dễ dàng. Làng xóm Hậu Giang nằm ven những dòng sông, những kênh rạch, nhà cửa thưa thớt, cách nhau một tiếng hú và toàn là nhà lá với tỷ lệ hơn 90%. Những ngôi nhà tường cá biệt là những ngôi nhà địa chủ cất từ thời Pháp thuộc hoặc của những người thuộc loại “giàu xưa”. Hình ảnh phổ biến tại các làng xóm Hậu Giang là: một căn nhà lá hai mái nằm cạnh bờ sông. Trước mặt nhà là bến sông có cái trại xuồng (hoặc ghe) và đôi bờ là hai rặng lá dừa nước, bần, mắm chạy ngút ngàn, xanh thẫm. Bên hông ngôi nhà là một đống rơm khô có con trâu nằm nhai cỏ trong buổi trưa hè. Sau đống rơm là cái chuồng trâu và lủ khủ cày, bừa, trục… Bên còn lại của ngôi nhà là cái chái bếp và một hàng cau hoặc hàng dừa. Sau chái bếp là một liếp rau được trồng lủ khủ hành, ớt, ngò, sả… Kế bên đó nữa là cái sàn lản, có hàng lu nước bằng sành. Sau sàn lản là một cái ao to, dùng trữ nước xài trong mùa hạn. Trên mặt ao hồng thắm những bông sen, bông súng. Và sau nữa là những cánh đồng của làng trải rộng, mênh mông tới đường viền chân trời. Ở đó tháng Tám, mưa ngâu, nước đồng lểnh lảng, có tiếng nhái bầu ngắt nga, chim vịt gọi bầy làm thổn thức đồng chiều, để mẹ ta buồn mênh mông, bồng em ra đứng bờ đê, mắt xa xăm dõi về cố thổ mà cất lên lời ca đầy day dứt:
“Chiều chiều ra đứng bờ ao
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều”.
Và cũng ở đó, mùa hạn là đồng khô cỏ cháy, có con trâu lạc bầy lững thững và một cánh diều chấp chới phía chân đê. Chiều xuống, ráng chiều nhuộm hồng sắc lửa rồi trải trên đồng quê cái màu tím u uẩn. Ai đốt lửa ngoài đồng mà khói đốt đồng cứ dâng cao, lừng lững giữa trời chiều làm tím cả cánh đồng và tím cả hồn ta bằng một nỗi buồn xa xăm, vô cớ. Để rồi nắng hạ, mưa thu kéo về, ta lớn lên đi xa, cánh đồng cũ cứ đeo bám theo ta làm đau đáu một đời.
Tôi cũng có một ngôi nhà, một làng quê và một cánh đồng như thế. Ở đó có đời cha mẹ nghèo tả tơi manh áo, có anh em hui hút những bữa cơm rau luộc mắm đồng. Giờ cha mẹ đã về nơi xa khuất, anh em kẻ mất người còn, cái gia đình nông dân ngày cũ giờ đã tan đàn xẻ nghé từ lâu lắm. Nhà xưa, đồng cũ giờ đã khác biệt, đã thật xa xôi trong dĩ vãng. Tôi ở căn nhà ấy, quê ấy từ khi lọt lòng mẹ đến năm 16 tuổi thì thực hiện một chuyến đi dài, xa xôi, biền biệt. Hơn 40 năm sống đời kẻ chợ, có những đêm mưa tôi giật mình ngơ ngác nghe trong tiềm thức có tiếng mưa thu rắc nhẹ trên mái lá nhà xưa. Trong những đợt gió bấc về se lạnh khi cận tết, tôi cũng nghe mấy ngọn gió xuân nôn nả thổi xạc xào, reo vui mái lá ở hai đầu song nhà. Thế là tôi tốc mùng ngồi dậy mà bần thần tự hỏi, đó có phải là tiếng quê, là hồn của bản quán đang đánh thức hồn người mà nức nở đến như thế? Thời gian cứ đi miết, tóc xanh rồi tóc bạc, nhà xưa đồng cũ đã thật xa xôi như một cánh nhạn ở lưng trời, vậy mà nó hằn sâu trong tâm khảm thành miền cố hương hoài vọng, làm thổn thức đời ta.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận