(tiếp theo số báo 3409)

Ảnh minh họa: Internet
Năm 1970, chính quyền Sài Gòn bắt dân xóm Bờ Xáng chúng tôi phải qua ấp Tân Sinh (Tân Sinh là tên gọi mới áp dụng cho các ấp chiến lược, ra đời từ phong trào gom dân lập ấp của chế độ Việt Nam Cộng hòa, theo ý nghĩa ấp đời sống mới), Cả Vĩnh mà ở, chỉ cách một con sông. Và họ thông báo rằng ấp Bờ Xáng trở thành vùng “Xạ kích tự do”. Đã là vùng “Xạ kích tự do” thì Việt Nam Cộng hòa không chịu trách nhiệm về nhân mạng con người, dù chết do bất kỳ lý do nào. Ba tôi hỏi đất bác Lục Nguyên (ông là người Khmer, có đi tu nên gọi là ông Lục) che chòi ở tạm. Cũng lúc này dân Vàm Lẽo, Ông Nam, Hoàng Ba, Chợ Kinh, Tân Quy (thuộc tỉnh Sóc Trăng ngày nay)… lũ lượt bồng chống gia đình cùng vật dụng xuống xuồng ghe chạy vào xóm tôi và các làng xóm ven sông Bạc Liêu cũng như vào đô thị Bạc Liêu lánh nạn chiến tranh. Lúc này chiến sự lên đến đỉnh điểm ở khắp các vùng giải phóng. Dân không thể sống nổi nữa nên họ đi tản cư. Có lúc cả xóm Ông Nam chỉ còn một căn nhà. Ở xóm Cả Vĩnh người tản cư vào ở rất đông, đó là một đời sống tạm bợ đầy khó khăn, với những căn chòi lá nhỏ xíu, ngày ngày hai bữa cơm rau cháo vì mất ruộng vườn, nhà cửa.
Toàn vùng Bạc Liêu lúc ấy là một cuộc xáo trộn xã hội rất lớn của làn sóng dân nông thôn chạy vào thị xã, thị tứ mà người đương thời gọi là đi tản cư. Sau đó là bao nhiêu nỗi đau, nỗi nhục ê chề xảy ra. Những nàng thôn nữ dịu hiền bị xã hội và cuộc sống khó khăn gài bẫy đi làm sở Mỹ, rồi làm gái mại dâm; những anh thanh niên hiền lành biết nghề cắm câu, giăng lưới thì nhập băng bụi đời hoặc bị bắt lính, mang súng quay về bắn vào nông thôn…
Gia đình tôi đi tản cư gần nên đỡ khổ hơn những gia đình nói trên. Sáng sáng ba má tôi bơi xuồng qua sông là về nhà cũ để làm ruộng rẫy. Hễ có động tĩnh thì chui xuống hầm. Từ năm 1963 cho đến năm 1975, nông thôn Bạc Liêu, hầu như nhà nào cũng có một căn hầm tránh pháo. Đó là một thứ hầm đắp đất xung quanh dày cả mét, chỉ chừa cái miệng để chui vào bò ra. Trên nắp hầm người ta gác những cây to, rồi đắp đất, chất trấu lên để tránh bom, pháo. Thật ra, những loại hầm này chỉ tránh được “đạn nhọn” thôi, chứ bom 500kg hoặc pháo 105mm mà rớt trúng thì kể như chết cả gia đình. Làng tôi đã có nhiều trường hợp như thế.
Hồi đó 3 - 4 tuổi tôi đã biết ngủ hầm. Đó là một quãng thời thơ ấu dài lê thê. Căn hầm đã chật chội, chỉ khoảng 3 - 4m2 mà phải “nhét” trong đó cả một gia đình nên không gian bức bối, thiếu không khí đến nghẹt thở. Đã thế mà ba tôi còn lấy cái bao bố tời, đổ trấu vào ép cho chặt đầy kín cửa hầm vì sợ mảnh pháo và cả rắn bò vào.
Cứ chạng vạng tối, cơm nước xong là má tôi lùa anh em tôi vào hầm như lùa vịt vào chuồng. Má tôi bị thần kinh rồi, chiến tranh chết chóc đã đày đọa tinh thần bà, lúc nào bà cũng nơm nớp lo sợ ở ngoài hầm thì đạn pháo bắn trúng. Kể ra đời mấy con vịt còn sướng hơn đời chúng tôi, chuồng vịt thì quang đãng, thoáng khí, còn căn hầm chúng tôi tránh pháo vừa chui vào là mồ hôi vã ra như tắm. Chúng tôi ngủ trần truồng mà nóng nực không chịu nổi, rồi ghẻ lở khắp người. Giấc ngủ tuổi thơ thời đó là những giấc ngủ chập chờn nhiều ác mộng. Thiếu vắng những giấc mơ đẹp. Và chúng tôi từ đó lớn lên, tâm hồn héo hon như thể chất của mình. Tôi khao khát một ngày má tôi đi xóm, để tôi ra ngoài ngủ một đêm trên chiếc giường tre, có gió đông mơn man vỗ về giấc ngủ.
Ngủ hầm như thế nhưng cái chết vẫn tìm đến. Năm 1967, gia đình chị Năm (lâu rồi tôi không nhớ tên) từ Vàm Lẽo tản cư vào xóm tôi rồi cất chòi ở ven kênh Thào Lạng, đêm đó trái pháo rơi trúng nắp hầm giết chết mẹ con của chị. Những năm đầy hãi hùng đó, ở làng tôi thỉnh thoảng sau đợt pháo dập là tiếng khóc rộ lên, dân làng tôi biết rằng pháo đã bắn trúng nắp hầm của nhà ai đó trong xóm, có khi chết cả gia đình 4 - 5 người. Tôi nhớ năm 1967, tôi và anh Hữu (anh ruột của tôi) cùng ba tôi ra chợ Kinh chở lá về bán, đến đoạn xóm Năm Căn, vào khoảng 3 giờ khuya thì cá nhái (trực thăng) soi đêm ra tới. Chúng tôi chèo ghe lủi đại vào bến của một căn nhà tối thui và cũng không có ai ở rồi chui vào hầm tránh pháo của căn nhà ấy. Mệt quá tôi ngủ một giấc, đến sáng ra mới phát hiện đó là nhà anh Tám Cầm, có bà con xa, gọi ba tôi bằng cậu. Hơn 10 ngày trước, cá nhái soi đêm đã bắn chết chị Tám Cầm, ngay căn hầm này, vết máu còn loang lổ dưới đáy hầm. Hoảng hồn, tôi và anh Hữu chui ra thì thấy giữa nhà cái bàn thờ tang của chị Tám lạnh tanh nhang khói. Có lẽ anh Tám và sắp nhỏ đã bỏ cái bàn thờ tang mà đi chạy giặc rồi.
Nhìn cái nhà có chiếc bàn thờ hoang lạnh, ba tôi đến thắp cho chị Tám một nén nhang rồi ông đứng khóc. Có lẽ ba tôi khóc vì cảm thương hương hồn lạnh lẽo của chị Tám và ông cũng khóc vì quê hương đất nước đau thương giặc giã của mình.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận