(tiếp theo số báo 3410)
Chiến tranh có những điều rất kinh khủng, nhà tôi ở cặp sông Bạc Liêu, cứ năm ba bữa là thấy một xác chết trôi sông trương sình. Không biết họ là người của bên này hay bên kia, hay đó cũng có thể là dân thường, chỉ biết rằng họ đã rơi vào hoàn cảnh “trôi sông lạc chợ”. Cảm thương họ, mấy ông già xóm tôi bơi xuồng ra vớt rồi bó chiếu mà chôn ở khu đất hoang có tên gọi là Đầu Vàm Cả Vĩnh. Đó là một đoạn sông hoang vắng đôi bờ là doi vịnh, bần mắm mọc thành rừng hoang và đứng cúi đầu như mặc niệm những sinh linh uổng tử. Chôn riết rồi Đầu Vàm Cả Vĩnh thành cái nghĩa địa. Ở đó có mồ mả sơ sài hoang lạnh nhưng không có bia mộ ghi tạc tên người vì thế không biết người dưới mộ bản quán nơi đâu. Hồi đó, cái nghĩa địa hoang ấy là nỗi kinh hoàng của bọn trẻ chúng tôi. Còn giờ đây, ngồi nhớ lại, tâm trạng tôi đau đớn, rồi bật lên một tiếng lòng: Ôi đất nước điêu linh, con dân lạc loài…
Hồi tôi 8 tuổi, nhưng đến giờ tôi vẫn nhớ như in. Đó là một buổi sớm mai của ngày 14/7/1968. Một chiếc ghe chở mía, cóc, khoai lang… cập bến nhà anh Tư Đẩu, ở cạnh nhà tôi, rồi tiếng khóc rộ lên vang động cả xóm. Trên mớ hàng bông của chiếc ghe được đậy một tấm cao su, dưới lớp cao su lòi ra những cái tay, cái chân còng queo và đầy máu, dưới đáy ghe cũng đục ngầu máu đỏ. Số là vợ chồng thằng Năm Dửng (bà con gọi tôi bằng chú) con anh Tư Đẩu đi lên vùng trên chở hàng về bán cho người ta mua thí giàn rằm tháng Bảy. Khi về đến ngã ba Vàm Lẽo thì bị một trái pháo từ chợ Bạc Liêu bắn ra, trúng ngay chiếc ghe, làm chết vợ chồng Năm Dửng và hai đứa con 6 - 7 tuổi. Tôi nhìn cái cảnh tang thương ấy rồi tôi sợ, sợ cả máu người nên 5 - 7 năm sau tôi vẫn không dám ăn mía, cóc, khoai lang… nữa.

Minh họa: B.T
Qua ngày sau, chôn cất vợ chồng Năm Dửng xong, là ngày Rằm tháng Bảy, đó là buổi chiều chạng vạng, từ phía bên kia sông, tiếng anh Bảy Học (cũng bà con, gọi ba tôi bằng cậu, từ ngoài Năm Căn chạy vào) hét vọng sang cửa nhà tôi: “Cậu Sáu ơi, cậu Sáu Phước ơi, con gái cậu bị máy bay phóng pháo chết rồi”. Cả nhà tôi chưng hửng rồi hoảng loạn, rồi tiếng khóc thét lên. Má tôi thờ thẫn vô hồn mà nói với ba tôi trong vô thức: “Không lẽ con Nhạc mình nó chết hả ông?”. Và sau đó thì chị Hai tôi chết thật, chị chết lúc 17 tuổi. Chị Hai tôi đẹp lắm, da trắng hồng, mái tóc vàng tự nhiên bồng bềnh, chị hiền lắm, lúc đó cũng chưa biết “sửa soạn” gì cả. Quanh năm suốt tháng chị chỉ bồng em, chẻ củi, nấu cơm. Thời gian rảnh chị xuống bãi sông Bạc Liêu mà thụt cá bống sao và bắt chem chép. Má tôi đi chợ về mua một cây mía, chặt ra, chia đều cho mỗi đứa một khúc, phần của chị chị không ăn mà đến tối vào buồng ngủ chị chặt chia cho tôi với con Diệu (em ruột tôi). Những đêm ngủ hầm, chị cứ ngồi quạt cho hai đứa em bằng cây quạt do chị chầm từ lá dừa nước. Chị quạt cho đến khi mòn mỏi, ngủ gà ngủ gật thì thôi. Người đi cưới chị là anh Hai Bao, ở xóm Năm Căn. Anh cũng nghèo, nhưng được cái là con một. Ba má tôi gả chị với một hy vọng cho tấm thân chị được sung sướng một chút. Anh Hai cưới chị mới có 4 tháng thì chị chết. Đó là một cái chết không toàn thây, chị lãnh nguyên trái pháo từ con đầm già L19 ngày ngày lượn lờ ven sông Bạc Liêu. Ba tôi chết điếng, má tôi ngất xỉu khi xem mặt con gái lần cuối. Mái tóc bồng bềnh của chị cháy hết, tay chân thì gãy từng khúc. Khuôn mặt rất trẻ thơ của chị vẫn còn hằn lên nỗi kinh hoàng.
Vậy là chị tôi đã thật sự ra đi, sau khi thực hiện một kiếp đời quá nhọc nhằn và cũng quá ngắn ngủi.
Ba má chở chị Hai tôi từ Năm Căn về chôn ở mảnh đất sau ruộng nhà tôi rồi khiêng đồ xuống ghe bỏ lại căn nhà bên ấp Tân Sinh - Cả Vĩnh mà về nhà cũ bên ấp Bờ Xáng ở. Lúc đó nhiều người cản ngăn, vì chiến tranh vẫn còn đầy trời. Nhưng ba tôi bất chấp, vẻ mặt ông là vẻ mặt của những người nhiều đau khổ nên không còn sợ cái chết. Thật ra ba má tôi quyết định về nhà cũ còn một lý do nữa, là trong rừng nhà tôi có 3 căn hầm bí mật, ở đó mấy chú mấy anh đang chờ.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận