Thứ bảy, 20-12-25 11:54:51
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Một trang đời mở ra

Báo Cà Mau

(tiếp theo số báo 3412)

Ảnh minh họa: T.L

Chiến tranh lan rộng đến làng tôi. Nhịp sống bị đảo lộn hoàn toàn. Giặc giã người ta chỉ lo chuyện sống chết, nên mùa màng thất bát liên miên. Anh Tư Cừ và đám trai làng trốn chui trốn nhủi vì sợ bắt quân dịch. Kinh tế nhà nào cũng kiệt quệ, vậy nên anh Tư và chị Hai Xuân thương nhau đã 3 mùa lúa mà ba tôi không có tiền làm đám cưới cho họ. Rồi cũng tại một bữa cơm ở nhà tôi, vào lúc rượu ngà ngà, bác Tám Vịt lại nói với ba tôi: “Tôi gả con Hai Xuân cho thằng Tư Cừ không đòi gì hết để trả cái nghĩa chú đùm bọc gia đình tôi mấy năm về đây”. Thế là ba tôi làm một mâm cơm cúng ông bà, mời bà con lối xóm đến chứng kiến cái lễ gá nghĩa giữa anh Tư Cừ và chị Hai Xuân. Đó là một đám cưới đơn sơ thật sự, không có áo cưới, bông tai, vàng bạc vậy mà họ về với nhau bằng niềm hạnh phúc ngất trời. Ba tôi cất một cái chòi ven sông Thào Lạng, lại sắm cho miệng đáy để vợ chồng anh Tư sinh sống. Ở đó hai đứa con anh lần lượt ra đời. Cứ im tiếng pháo là căn chòi ấy nở rộ tiếng cười, réo rắt tiếng đờn ca.

Nhiều trai làng đi kháng chiến hay đi quân dịch cho Việt Nam Cộng hòa, dòng tộc nhà tôi nhiều người đi kháng chiến nhưng ba tôi nhất quyết không cho anh Tư Cừ đi vì hai đứa con anh còn nhỏ quá, anh trốn chui trốn nhủi để làm nuôi vợ nuôi con. Thế nhưng, bên trại đáy ở kênh Thào Lạng tối nào pháo cũng dập, sợ quá, ba tôi bảo vợ chồng anh Tư Cừ qua Cả Vĩnh mà ở. Dọn qua căn nhà của ba tôi rồi, ngày ngày anh làm nghề sửa radio, đồng hồ, máy may… kiếm sống. Vậy đó mà chiến tranh nào có buông tha. Đó là một buổi hừng đông năm 1970, lúc tôi mới 10 tuổi, chị Hai Xuân bụng mang dạ chửa đứng phía bên kia sông vật vã gọi sang nhà tôi bằng giọng đau xé rằng anh Tư Cừ đã chết. Anh không tham gia cách mạng cũng không đi lính chế độ Sài Gòn vậy mà anh chết, chết do sự tàn độc của chiến tranh. Lúc đó, anh mới 31 tuổi. Mấy bà già ở xóm khóc nức nở: “Tướng mạo nó như vậy sao mà nó chết yểu được hỡi trời?!”.

Chôn cất anh Tư Cừ xong, chị Hai Xuân trở thành góa phụ của thời chiến tranh. Chiến tranh ngày càng khốc liệt, bom pháo đầy trời. Người ta ăn cơm cũng phải ngồi cạnh miệng hầm tránh pháo. Lúc đó con Phượng - con gái lớn của chị mới 6 tuổi, còn thằng Dũng thì 4 tuổi, chị lại sắp sinh. Suốt ngày chị ngồi trước bàn thờ anh Tư nhìn di ảnh của anh bằng ánh mắt rờn rợn vô hồn vô vọng. Gia đình chị sống bằng nguồn chu cấp của dòng họ, lâu lâu ba tôi gửi cho một ít gạo, chú bác, cô dì gom góp cho một ít tiền… Khoản này chỉ đủ cho mẹ con chị sống cầm hơi thôi, vì thời đó chạy giặc liên miên ai cũng nghèo không có để mà cho nhiều. Khi chị ở cữ, hai đứa con chị như vịt lạc đàn, má tôi phải sang nuôi đẻ. Mỗi lần gia đình dọn cơm, thằng Dũng đi thất thơ thất thểu qua mấy nhà hàng xóm gọi ba nó về ăn cơm! Chị Tư nuốt một cục uất hận nói với con gái: “Phượng! Kêu em về, ba ăn trên bàn thờ rồi con ơi!”.

Chị sinh con trai, nó giống anh Tư như đúc. Chị ôm nó đứng một mình trước bàn thờ anh Tư trông cô đơn và tuyệt vọng đến khôn cùng. Sau khi ở cữ một tháng, chị nhắn ba tôi sang, vẻ rất quan trọng, chị nói trong nước mắt: “Chú cho con về Long Xuyên ở với ba má con (gia đình bác Tám Vịt rời xóm tôi về quê trước đó 4 năm), chứ ở đây nhớ anh Tư con không sống nổi, hơn nữa con cái con nheo nhóc không làm gì được. Chú thím cũng khổ quá! Con chỉ xin gửi cái bàn thờ anh Tư lại”. Má tôi khóc như mưa, ba tôi thì mắt ráo hoảnh mà chất chứa sự dằn xé đau đớn. Mấy ngày sau, ba tôi sắp xếp đồ đạc rồi gửi bốn mẹ con chị theo ghe chế Sáu Hên về Long Xuyên. Chị đi rồi, ba tôi một mình ở trong căn nhà chị một đêm, sáng ra ông như từ cõi nào trở về, đi liêu xiêu, đầu bạc trắng.

Từ đó chị Hai Xuân biệt tăm mấy chục năm. Dòng họ tôi cũng có nhận những thông tin loáng thoáng về chị, rằng: Mẹ con chị về ở với bác Tám Vịt một thời gian rồi bác Tám trai, bác Tám gái lần lượt qua đời, không còn chỗ tựa nương, chị đành phải gá nghĩa với một người đàn ông khác. Rồi không biết vì nghèo quá hay vì ý kiến của người chồng mới mà chị đem thằng con Út của anh Tư Cừ đi cho người khác. Thằng Dũng thì chị cho đi ở đợ làm ngư phủ cho ghe biển, chủ ghe đi vượt biên mang luôn thằng Dũng theo, chẳng may chiếc ghe ấy chìm giữa biển, thằng Dũng chết theo đoàn vượt biên ấy. Mấy năm sau, trong lúc chị cùng người chồng mới đi gặt mướn thì giẫm phải mìn còn sót lại trong chiến tranh, người chồng chết còn chị thì bị thương khắp người, phải cưa một cánh tay.

(còn nữa)

Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Biểu tượng hoa cau trong văn hoá Khmer

Hoa cau, biểu tượng thiêng liêng trong hôn lễ của người Khmer, được xem là thước đo phẩm hạnh, phản ánh giá trị văn hoá độc đáo.

Trao thưởng các tác giả đạt Giải thưởng Văn học, Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển lần thứ V

Chiều 12/12, UBND tỉnh Cà Mau tổ chức Lễ trao Giải thưởng Văn học, Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển lần thứ V. Dự lễ có đồng chí Phạm Văn Thiều, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh và đồng chí Ngô Vũ Thăng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh.

Điểm đến giàu tiềm năng du lịch văn hoá - tín ngưỡng

Toạ lạc tại xã Hưng Hội, chùa Soryaram (chùa Giữa) đã tồn tại gần một thế kỷ và vẫn gìn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp kiến trúc cổ truyền, lộng lẫy. Không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo của đồng bào Khmer, chùa còn là không gian văn hoá đặc sắc, hội tụ nhiều giá trị truyền thống, tạo tiềm năng lớn để phát triển du lịch văn hoá - tín ngưỡng.

Tục thờ Môn thần của người Hoa

Trong tín ngưỡng dân gian của cộng đồng người Hoa tại Cà Mau, tục thờ Môn thần là nét văn hoá đặc sắc, gắn liền với quan niệm về sự an cư, bảo hộ và trấn áp tà khí.

Sắc màu văn hoá Khmer qua Lễ Cầu an

Hằng năm, sau Tết Chôl Chnăm Thmây, đồng bào Khmer tại các phum - sóc trên địa bàn tỉnh Cà Mau lại hân hoan tổ chức Lễ Cầu an (Panh Kom San Srok), một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng nhất.

Bồi dưỡng kiến thức văn hoá DTTS cho đội ngũ nhân lực trẻ

Sáng 7/12, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp Trường Đại học Bạc Liêu tổ chức hoạt động tham quan thực tế và giao lưu kỹ thuật trình diễn nghệ thuật Khmer tại chùa Xiêm Cán (phường Bạc Liêu).

Đánh thức tiềm năng du lịch từ bánh dân gian người Hoa

So với các dân tộc anh em khác, cộng đồng người Hoa tại Cà Mau sở hữu nhiều nghề truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa, trong đó, nghề làm các loại bánh dân gian có nguồn gốc từ Trung Quốc. Những loại bánh này không chỉ mang hương vị đặc trưng mà còn hàm chứa nhân sinh quan sâu sắc, thể hiện ước vọng về trường thọ, phúc - lộc - an khang.

Sắp xếp, tinh gọn các tổ chức văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số

Sáng 6/12, tại tỉnh Cà Mau, Hội Văn học nghệ thuật (VHNT) các dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam tổ chức Hội thảo sắp xếp, tinh gọn, hợp nhất các tổ chức VHNT các DTTS, thống nhất trong đa dạng.

Quảng bá quê hương tươi đẹp

Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ðông Xuân (nghệ danh Nguyễn Xuân) đến với nhiếp ảnh từ năm 1984, thời kỳ còn sử dụng máy ảnh chụp phim đen trắng. Từ năm 1987-1990, anh là bộ đội tình nguyện làm nghĩa vụ quốc tế, phóng viên chiến trường (chuyên đề tài liệu, tư liệu) ở nước bạn Campuchia, Sư đoàn 330 thuộc Mặt trận 979, Quân khu 9.

Lan toả văn hoá Khmer trong học đường

Giữa trung tâm xã Đá Bạc, nơi có hơn 700 hộ đồng bào Khmer sinh sống, Trường Phổ thông dân tộc nội trú - THCS Danh Thị Tươi trở thành điểm sáng trong hành trình gìn giữ và lan toả giá trị văn hoá truyền thống. Là trường nội trú THCS duy nhất của tỉnh Cà Mau dành cho học sinh Khmer, nơi đây không chỉ truyền đạt tri thức mà còn nuôi dưỡng bản sắc dân tộc, để văn hoá Khmer được tiếp nối bằng sự trân trọng và tự hào.