(tiếp theo số báo 3412)

Ảnh minh họa: T.L
Chiến tranh lan rộng đến làng tôi. Nhịp sống bị đảo lộn hoàn toàn. Giặc giã người ta chỉ lo chuyện sống chết, nên mùa màng thất bát liên miên. Anh Tư Cừ và đám trai làng trốn chui trốn nhủi vì sợ bắt quân dịch. Kinh tế nhà nào cũng kiệt quệ, vậy nên anh Tư và chị Hai Xuân thương nhau đã 3 mùa lúa mà ba tôi không có tiền làm đám cưới cho họ. Rồi cũng tại một bữa cơm ở nhà tôi, vào lúc rượu ngà ngà, bác Tám Vịt lại nói với ba tôi: “Tôi gả con Hai Xuân cho thằng Tư Cừ không đòi gì hết để trả cái nghĩa chú đùm bọc gia đình tôi mấy năm về đây”. Thế là ba tôi làm một mâm cơm cúng ông bà, mời bà con lối xóm đến chứng kiến cái lễ gá nghĩa giữa anh Tư Cừ và chị Hai Xuân. Đó là một đám cưới đơn sơ thật sự, không có áo cưới, bông tai, vàng bạc vậy mà họ về với nhau bằng niềm hạnh phúc ngất trời. Ba tôi cất một cái chòi ven sông Thào Lạng, lại sắm cho miệng đáy để vợ chồng anh Tư sinh sống. Ở đó hai đứa con anh lần lượt ra đời. Cứ im tiếng pháo là căn chòi ấy nở rộ tiếng cười, réo rắt tiếng đờn ca.
Nhiều trai làng đi kháng chiến hay đi quân dịch cho Việt Nam Cộng hòa, dòng tộc nhà tôi nhiều người đi kháng chiến nhưng ba tôi nhất quyết không cho anh Tư Cừ đi vì hai đứa con anh còn nhỏ quá, anh trốn chui trốn nhủi để làm nuôi vợ nuôi con. Thế nhưng, bên trại đáy ở kênh Thào Lạng tối nào pháo cũng dập, sợ quá, ba tôi bảo vợ chồng anh Tư Cừ qua Cả Vĩnh mà ở. Dọn qua căn nhà của ba tôi rồi, ngày ngày anh làm nghề sửa radio, đồng hồ, máy may… kiếm sống. Vậy đó mà chiến tranh nào có buông tha. Đó là một buổi hừng đông năm 1970, lúc tôi mới 10 tuổi, chị Hai Xuân bụng mang dạ chửa đứng phía bên kia sông vật vã gọi sang nhà tôi bằng giọng đau xé rằng anh Tư Cừ đã chết. Anh không tham gia cách mạng cũng không đi lính chế độ Sài Gòn vậy mà anh chết, chết do sự tàn độc của chiến tranh. Lúc đó, anh mới 31 tuổi. Mấy bà già ở xóm khóc nức nở: “Tướng mạo nó như vậy sao mà nó chết yểu được hỡi trời?!”.
Chôn cất anh Tư Cừ xong, chị Hai Xuân trở thành góa phụ của thời chiến tranh. Chiến tranh ngày càng khốc liệt, bom pháo đầy trời. Người ta ăn cơm cũng phải ngồi cạnh miệng hầm tránh pháo. Lúc đó con Phượng - con gái lớn của chị mới 6 tuổi, còn thằng Dũng thì 4 tuổi, chị lại sắp sinh. Suốt ngày chị ngồi trước bàn thờ anh Tư nhìn di ảnh của anh bằng ánh mắt rờn rợn vô hồn vô vọng. Gia đình chị sống bằng nguồn chu cấp của dòng họ, lâu lâu ba tôi gửi cho một ít gạo, chú bác, cô dì gom góp cho một ít tiền… Khoản này chỉ đủ cho mẹ con chị sống cầm hơi thôi, vì thời đó chạy giặc liên miên ai cũng nghèo không có để mà cho nhiều. Khi chị ở cữ, hai đứa con chị như vịt lạc đàn, má tôi phải sang nuôi đẻ. Mỗi lần gia đình dọn cơm, thằng Dũng đi thất thơ thất thểu qua mấy nhà hàng xóm gọi ba nó về ăn cơm! Chị Tư nuốt một cục uất hận nói với con gái: “Phượng! Kêu em về, ba ăn trên bàn thờ rồi con ơi!”.
Chị sinh con trai, nó giống anh Tư như đúc. Chị ôm nó đứng một mình trước bàn thờ anh Tư trông cô đơn và tuyệt vọng đến khôn cùng. Sau khi ở cữ một tháng, chị nhắn ba tôi sang, vẻ rất quan trọng, chị nói trong nước mắt: “Chú cho con về Long Xuyên ở với ba má con (gia đình bác Tám Vịt rời xóm tôi về quê trước đó 4 năm), chứ ở đây nhớ anh Tư con không sống nổi, hơn nữa con cái con nheo nhóc không làm gì được. Chú thím cũng khổ quá! Con chỉ xin gửi cái bàn thờ anh Tư lại”. Má tôi khóc như mưa, ba tôi thì mắt ráo hoảnh mà chất chứa sự dằn xé đau đớn. Mấy ngày sau, ba tôi sắp xếp đồ đạc rồi gửi bốn mẹ con chị theo ghe chế Sáu Hên về Long Xuyên. Chị đi rồi, ba tôi một mình ở trong căn nhà chị một đêm, sáng ra ông như từ cõi nào trở về, đi liêu xiêu, đầu bạc trắng.
Từ đó chị Hai Xuân biệt tăm mấy chục năm. Dòng họ tôi cũng có nhận những thông tin loáng thoáng về chị, rằng: Mẹ con chị về ở với bác Tám Vịt một thời gian rồi bác Tám trai, bác Tám gái lần lượt qua đời, không còn chỗ tựa nương, chị đành phải gá nghĩa với một người đàn ông khác. Rồi không biết vì nghèo quá hay vì ý kiến của người chồng mới mà chị đem thằng con Út của anh Tư Cừ đi cho người khác. Thằng Dũng thì chị cho đi ở đợ làm ngư phủ cho ghe biển, chủ ghe đi vượt biên mang luôn thằng Dũng theo, chẳng may chiếc ghe ấy chìm giữa biển, thằng Dũng chết theo đoàn vượt biên ấy. Mấy năm sau, trong lúc chị cùng người chồng mới đi gặt mướn thì giẫm phải mìn còn sót lại trong chiến tranh, người chồng chết còn chị thì bị thương khắp người, phải cưa một cánh tay.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận