(tiếp theo số báo 3413)

Minh họa: B.T
Từ đó bên chồng hết thương chị vì chị không làm được bổn phận của một người mẹ, người vợ. Chỉ có ba tôi hồi còn sống ông lên Long Xuyên tìm thăm chị hai lần và ông bảo: “Hoàn cảnh nó như vậy, không có chồng, không cho con làm sao mà sống”. Nói xong ba tôi ứa nước mắt. Kể từ khi ba tôi qua đời, cái dòng họ Phan cắt đứt liên lạc với chị.
Thế rồi vào năm 1999, khi tôi mới chân ướt chân ráo dọn nhà từ Cà Mau về Bạc Liêu vào dịp chia tách tỉnh năm 1997, đột nhiên chị về, đi thăm khắp dòng họ bên chồng. Chị ghé nhà tôi. Ba mươi năm cũng không phải dài lắm, vậy mà nhìn chị tôi ngộ ra thế nào là vật đổi sao dời của cuộc đời. Trước mặt tôi là một người đàn bà 50 tuổi mà già sọm như 60. Mặt chị lỗ chỗ vết thương, tay cưa đến nửa cườm. Chị mặc một chiếc áo vá, tay xách chiếc giỏ đệm. Tôi nhìn mãi không nhận ra một nét quen thuộc nào của chị Hai Xuân sắc nước hương trời ngày cũ. Mặt chị lúc bình thường lúc ngớ ngẩn, mắt chị lúc buồn, lúc vui, lúc dài dại. Chị nói chuyện rổn rảng, ý nọ xọ ý kia, không đầu không đũa, còn tai thì bị điếc. Lúc thì chị bảo: “Chị ở nhà chú ăn cơm chơi một đêm”, vài phút sau chị lại nói: “Chút nữa chị đi thăm hia Ba”. Tôi chợt nhớ còn 3 ngày nữa là cúng cơm anh Tư Cừ nên hỏi chị: “Chị nhớ cúng cơm anh Tư ngày nào không?”. Chị ngớ người, ra chiều suy nghĩ, hồi lâu chị bảo: “Lâu quá quên rồi!”. Tôi thất vọng về chị, bao nhiêu tình cảm trôi tuột hết.
Năm xưa, sau khi mẹ con chị về Long Xuyên, anh Ba, anh ruột anh Tư Cừ sang chở cái bàn thờ anh Tư về thờ đến bây giờ. Mấy ngày nay anh Ba cố cầm chị lại để dự đám giỗ chồng. Buổi cúng cơm anh Tư, tôi ra dự. Bà con tôi đến với chị rất đông, họ thương anh Tư Cừ đi cúng là một lẽ, lẽ khác là đi thăm chị Hai Xuân. Mấy chị con cô ruột tôi, tức chị chồng cô cậu ruột với chị vây lấy, ôm chị mà giọt ngắn giọt dài. Thế nhưng, chị Hai Xuân hoàn toàn không có một giọt nước mắt, vẫn nói vẫn cười rổn rảng. Chế Út Biết nhắc chuyện cũ: “Hồi đó thằng Tư Cừ nó đẹp trai lắm, mặt nó sáng trưng vậy mà không biết tại sao nó chết yểu”. Nói tới đó chị Út khóc, rồi chị Chín Đầy, chị Ba Hóa… khóc theo. Còn chị Hai Xuân thì cười ré lên: “Ừ ảnh đẹp trai lắm, nhiều cô ở xóm mê, nhưng ảnh chỉ thương có mình tôi”, nói dứt câu chị lại cười ngặt nghẽo. Bao nhiêu ánh mắt đổ dồn về chị, có người lắc đầu buồn bã. Chị là thế, vô tâm vô tính, trong lúc người ta buồn thì chị lại vui.
Đám giỗ tan, nhưng anh Ba mời một số người ở lại, vì rằng tối nay còn một chương trình văn nghệ do mấy anh vốn là bạn đờn ca em út ngày xưa của anh Tư Cừ năm nào cũng tổ chức một sòng đờn ca để tưởng nhớ anh. Sòng đờn ca đêm ấy tưng bừng vì ai chơi cũng nhiệt tình. Chị Hai Xuân được mời ngồi nghe ở chỗ trang trọng, càng về khuya tiếng đờn càng du dương, tiếng ca càng mùi. Họ ca những bài mà ngày xưa anh Tư Cừ ca, đó là “Gánh nước đêm trăng”, “Tiếng độc huyền”… Ai cũng xúc động, rơm rớm nước mắt, chỉ có chị Tư Xuân thì cười ngặt nghẽo như mụ điên. Phút tưởng niệm rồi cũng qua, men rượu làm cho sòng đờn ca xôm tụ như pháo nổ, giờ đây chỉ còn lại niềm vui của những người đang sống. Đột nhiên mặt chị Hai Xuân trở nên lạ lùng, cứ dài dại như nhập đồng, rồi xanh xao tái mét. Tôi đến nói nhỏ: “Nếu mệt thì chị đi nghỉ đi”, chị bảo: “Ừ, chị đi ngủ đây”. Chị Hai Xuân là vậy, trong lúc người ta buồn thì chị vui, trong lúc người ta vui thì chị buồn.
Khoảng 12 giờ đêm thì sòng đờn ca tan, tôi dẫn xe chạy về chợ Bạc Liêu, xe đến hậu đất anh Ba, nơi đặt mộ của bác Năm tôi và anh Tư Cừ thì tôi rụng rời, mình mẩy nổi da gà rồi tự hỏi: “Trên đời này có ma ư?”. Trong ánh trăng non ẻo lả ma quái, tôi nhìn thấy một người đàn bà đang xõa tóc quỳ trước 3 cái mả. Tôi dừng xe, định thần nhìn kỹ thì nhận ra chị Hai Xuân đang quằn quại khóc. Tiếng khóc nho nhỏ mà thiết tha đến tận cùng, nó nương theo tiếng gió mà len lỏi vào tận tim tôi. Tôi chưa từng nghe tiếng khóc nào đau đớn như thế, nó nghẹn ngào, uất ức, tủi cực và pha lẫn sự hối lỗi. Tôi đổ gục xuống vệ cỏ mà khóc theo chị.
Tôi thầm nhủ: “Chị Tư ơi em có lỗi với chị rồi”.
Chị vẫn ngồi đó, rất khuya, cái dáng mảnh mai gầy guộc như tan vào sương đêm. Tôi vẫn ngồi đây, xuyên đêm, để mà ngộ ra cái niềm đau đớn tận cùng của kiếp nhân sinh. Nó là sản phẩm của chiến tranh. Ôi! Chiến tranh tàn nhẫn đến vô cùng!
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận