(tiếp theo số báo 3415)

Ảnh minh họa: Internet
Gia đình tôi về đến nhà cũ thì tất cả đã tan hoang. Khu vườn cũ cỏ dại dây leo mọc bịt bùng như cụm rừng hoang. Rất may lửa đốt nhà năm ngoái vẫn chừa lại cái chái lá mà má tôi dùng để chất củi. Chúng tôi khiêng đồ vào đó ở tạm. Ba tôi đổ gục xuống thềm nhà cũ vì bàn thờ ông bà nội tôi giờ chỉ còn chỏng trơ cái chân bàn, còn lư hương thì bể nát.
Bỗng đâu, con chó phèn nhào ra, nó rên ư ử rồi vẫy đuôi liếm từng người. Trông nó ốm quá. Bàn chân phải phía trước của nó mất rồi, chắc bị mảnh pháo. Tôi không hiểu nổi làm sao mà con phèn sống được. Má tôi ôm nó và khóc bằng những giọt nước mắt của người mẹ gặp lại đứa con, sau bao ngày xa cách.
Năm đó người của làng tôi đi tản cư kéo về khá đông. Họ từ chùa Cái Giá về, từ ấp Tân Sinh Cả Vĩnh trở lại. Thậm chí có người tản cư vô trung tâm chiêu hồi, ngã ba quận Vĩnh Lợi… của chợ Bạc Liêu cũng lục đục kéo về.
Lửa đạn mịt trời, chết chóc diễn ra trước mắt và thật đáng sợ, cho nên phần nào cũng làm cho con người bớt hung hăng. Có rất nhiều người lính Việt Nam Cộng hòa ở bên Cả Vĩnh bị đưa vào trấn giữ các đồn Xẻo Lá, Mặc Đây, Vĩnh Hưng - những vùng trọng điểm của chiến trường Bạc Liêu khi về đã cạo đầu ăn chay. Lại có người đào ngũ, trốn vào chùa Cái Giá mặc áo nhà sư. Có những người trở nên cầu an, mặc áo lính nhưng hiền lành với xóm làng để mưu cầu sự sống. Tôi nhớ đầu năm 1970, ba tôi bơi xuồng đưa mấy chú, mấy anh cánh an ninh thị xã qua bên sông. Bác Tư Sển, bạn cũ của ba tôi, lúc đó làm trưởng ấp của chính quyền Sài Gòn, sau này ông kể lại rằng: Đêm đó sáng trăng, theo lệnh ông dẫn hơn chục phòng vệ dân sự đi kích bên kia sông. Ông nhìn rất rõ người vừa xuống xuồng là ông Sáu Phước (ba tôi) và 4 - 5 cán bộ cách mạng. Nếu ông chờ xuồng bơi đến giữa sông, phát lệnh nổ súng thì sẽ không một người nào còn sống, kể cả Sáu Phước. Thế là ông giả bộ cướp cò, khi xuồng chưa tách bến. Nhờ thế ba tôi và cánh an ninh chạy thoát.
Mặc dù có chủ trương của cấp trên, ấp Bờ Xáng là “vùng xạ kích tự do”, “vùng mất an ninh hoàn toàn”, nhưng khi dân tản cư rời khỏi các ấp chiến lược kéo về nhà cũ cũng không thấy ai làm khó dễ gì. Thế là cả làng sửa sang nhà cửa, tát đìa, có người còn nấu bánh tét và nhà nào cũng làm một mâm cơm cúng rước ông bà để tạ lỗi sau hơn một năm để cho vong linh tổ tiên lạnh lùng hương khói. Mùng Một tết người của làng cũng kéo nhau đi từ nhà này sang nhà khác mà cụng ly, mà chúc mừng năm mới. Phía lưng trời, giữa mịt mù khói lửa vẫn có những cánh én chấp chới thêu dệt một mùa xuân.
Sau cái tết đó gần một năm, có một người con gái lạ, khoảng 20 tuổi, đi chiếc tàu đò từ Vàm Lẽo ghé vào trước sân nhà tôi. Chị thoáng tần ngần rồi bước thẳng vào nhà tôi nói lí nhí, thèn thẹn với ba má tôi trong sự ngạc nhiên của hai người: “Thưa ba má, con là vợ hứa hôn của anh Ba Đờn. Ảnh có gửi thơ cho ba má…”.
Ba tôi cầm thơ đọc, thơ viết: “Thưa ba má! Cô gái cầm thơ này là Cưởng, vợ hứa hôn của con. Con đã báo cáo với tổ chức, còn ba má vì hoàn cảnh chiến tranh nên Cưởng về nhà mình thưa chuyện với ba má thay con, mong ba má tha lỗi! Sắp độc lập rồi, khi đó con về cày ruộng nuôi ba má và làm đám cưới với Cưởng để ba má nở mày nở mặt với người ta. Con nhớ ba má và mấy đứa em con lắm! Con của ba má: Phan Hữu Đờn”.
Đọc xong thơ, ba má tôi đều mừng. Kể ra, anh Ba tôi đi vào vùng giải phóng đã 2 năm mà gia đình chỉ thăm anh được một lần. Lần đó, tôi, má tôi cùng cô Tư chèo xuồng từ nhà tôi ra Vàm Lẽo hơn 10 cây số để thăm anh. Thời buổi chiến tranh, mỗi lần đi thăm là khó khăn, nguy hiểm vô cùng. Trên đường đi là phải trốn máy bay. Ra đến Vàm Lẽo phải ở nhờ nhà bác Mười Của mấy ngày để nhờ người “móc” anh Ba về. Nghe tin má và tôi ra, anh băng đồng cả một đêm, một ngày mới về tới chỗ thăm.
Năm tôi ra thăm, anh Ba mới 21 tuổi mà nghe nói đã làm đến chức Trung đội trưởng trinh sát của Tiểu đoàn Phú Lợi I. Hôm đó, anh mặc cái quần đùi, đội nón tai bèo, mình đeo súng và đạn M79 rất oai vệ. Gặp nhau, anh cứ ôm má và tôi đến nghẹt thở. Nhìn vết thương trên sống mũi anh mới kéo da non, má tôi khóc. Anh an ủi: “Má đừng lo, sắp độc lập rồi, con về cày ruộng nuôi má!”.
Anh thức suốt đêm nói chuyện với má và cô tôi. Còn tôi thì nằm gác đầu trên đùi anh, thi thoảng anh cúi xuống hôn vào trán tôi. Tôi thương anh Ba tôi lắm.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận