(tiếp theo số báo 3418)

Minh họa: B.T
Một buổi trưa hè nọ, má tôi ngồi nhìn chị bằng ánh mắt đầy xót xa, rồi bà kêu chị ra sàn lãn, cạnh lu nước để bà gội đầu cho chị. Nhìn mái tóc xơ xác, cháy sém của chị, má tôi bật khóc, rồi mẹ chồng nàng dâu ôm nhau mà khóc. Trong đôi mắt già nua của má tôi là một trời đau thương của nhân gian cộng lại. Má tôi uất ức, thương cảm nói với chị rằng: “Má chỉ có một thằng Đờn, làm sao má bù đắp được cho con đây hỡi trời ơi là trời…”.
Anh Ba tôi hy sinh năm 1973, lúc đó chị Cưởng 23 tuổi. Từ đó đến năm 1980, cả thời chiến tranh cho đến khi hòa bình, chị đều lui tới nhà tôi rất thường, đặc biệt là khi tết đến. Có chị Cưởng, ba má tôi cảm thấy như được bù đắp. Hai người xem chị như con gái. Tháng Chạp năm 1980, chị lại vào lo tết với má tôi, chị lầm lũi ra cụm rừng sau nhà tìm những góc trâm bầu khô đem về để nấu bánh, rồi rọc lá chuối… Khuôn mặt chị ẩn chứa một nỗi niềm ray rứt là lạ. Má tôi dò hỏi, chị khóc trước mặt ba má tôi rồi nói uất nghẹn: “Con định thưa với ba má cho con được đi lấy chồng”. Má tôi ngồi buồn so rồi lặng lẽ khóc. Tôi biết má tôi buồn một nỗi buồn của người mẹ sắp mất thêm một đứa con.
Ba tôi thì ngồi trên bàn giữa, suy nghĩ rất lâu rồi chậm rãi nói, giọng rất buồn: “Bà đừng khóc, con Cưởng đi lấy chồng là phải lẽ. Đàn bà con gái chỉ có một thời. Bà bịn rịn làm lỡ duyên con tội nghiệp. Hơn nữa, đối với gia đình mình, đối với thằng Đờn, mặc dù chưa đám cưới, nó cũng làm được phận vợ, phận dâu…”.
Chị Cưởng về. Chị đi như chạy, không dám ngoái đầu lại nhìn má tôi, cứ y như chị là kẻ có lỗi vậy. Còn ba má tôi cảm thấy như vừa vuột khỏi tay một đứa con. Hai ông bà già lặng lẽ, cực nhọc đi đốn lá để bán mót tiền mua một chiếc nhẫn nhỏ tặng chị vào ngày cưới.
Chồng chị Cưởng là một chủ ghe chài chở lúa gạo từ Bạc Liêu lên vùng trên. Hồi đó là thời bao cấp, nghèo lắm, có lúc nhà tôi ăn cơm độn khoai. Nghe nói chồng chị khá, ba má tôi vừa tủi vừa mừng, dù sao cũng đỡ tấm thân cho chị.
Bẵng đi hơn một năm sau, chị Cưởng mới về thăm lại nhà tôi. Khác hơn chúng tôi hình dung, chị Cưởng xanh xao, vàng vọt hơn, má trái chị bầm xanh hum húp. Mắt chị buồn đến thăm thẳm tái tê. Chị mang quà tặng ba má chồng và mấy đứa em chồng cũ rồi nói nói cười cười một cách gượng gạo, giả tạo. Má tôi cảm được điều không lành, bà gặng hỏi thì chị Cưởng bảo là bị té đòn dài bầm má. Đến tối, má tôi kêu chị vào buồng ngủ, bà ôm con dâu cũ mà rớt nước mắt rồi bảo: “Con dối gạt ai chớ làm sao gạt được má. Con không có hạnh phúc phải không?”. Chị lặng lẽ khóc một cách tủi phận, đau đớn và chị nghẹn ngào nói với má tôi: “Chồng con không thương con như anh Ba Đờn. Ảnh bảo con thờ con ma chớ không phải thờ chồng. Ảnh chạy theo tiền, những cuộc làm ăn và những người đàn bà khác. Ảnh ruồng rẫy, đánh đập con…”. Má tôi ôm chị, dỗ dành rồi khóc cùng chị. Tôi biết bà đau lắm, nỗi đau của người mẹ khóc phận bạc của con gái.
Và kể từ năm 1983, chị Cưởng không còn về nhà tôi nữa. Năm nào tết đến, ba má tôi cũng mong ngóng chị. Tôi biết chị không phải là người bạc lòng, phải chăng đời chị khổ quá nên không dám về, sợ làm buồn lây gia đình chồng cũ!
Năm tháng qua mau, tin tức về chị Cưởng vẫn mịt mù như một chân trời xa lắc. Đến năm 1984, má tôi qua đời. Rồi 13 năm sau nữa, ba tôi lại qua đời tiếp mà chị Cưởng vẫn bặt tăm. Tôi biết ba má tôi ra đi vẫn còn mang nỗi mong chờ chị xuống mộ. Năm 2003, nhân chuyến đi cúng mộ anh Ba Đờn ở Nghĩa trang Hòa Tú, tôi lội bộ hơn chục cây số về xóm Gọc Tre tìm gia đình chị, nhưng người của xóm bảo bác Ba Kiệt, ba chị đã chết từ lâu, còn chị thì mấy chục năm không thấy về nữa.
Chị Cưởng ơi! Chuyện của gia đình mình xảy ra đã suýt soát 40 năm. Vậy mà tết nào em cũng ngồi nhớ chị. Nhớ những cái tết nghèo khó và buồn đau của gia đình mình. Rồi em nhớ anh Ba, nhớ ba má, nhớ chế Hai… Em nhớ những phận người trong chiến tranh.
Đó là một nỗi nhớ da diết, một niềm ray rứt khôn nguôi của em hôm nay.
Tôi kể chuyện gia đình mình, làng quê mình với dụng ý minh họa một phần chiến tranh đánh Mỹ ở Bạc Liêu. Để qua đó mà cảm thức về chiến tranh.
Với tôi, chiến tranh ác liệt vô cùng, càng ác liệt bao nhiêu thì nó càng khắc nghiệt bấy nhiêu. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đánh Mỹ đã qua, Bạc Liêu có 12.000 liệt sĩ, mấy ngàn thương binh. Con số dân thường thiệt mạng và cả phía bên kia nữa thì không ai tổng kết cho hết. Chiến tranh đã làm cho bao gia đình tan nát, vợ mất chồng, con mất cha, mẹ già phải khóc măng non…
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận