(tiếp theo số báo 3422)

Minh họa: B.T
Tôi và một miếng cơm rồi cảm nhận được nhiều điều. Đó là miếng cơm mà hạt gạo sứt đầu mẻ trán và ốm o gầy mòn. Nó không được tròn trịa mây mẩy như những hạt gạo ở đồng lúa thuần ngọt, trúng mùa, bởi vì nó được hoài thai từ cánh đồng chát mặn, nghèo dinh dưỡng của đồng đất làng tôi. Tôi nhai hạt cơm ấy cũng cảm được cái vị mằn mặn, chứ nó không béo ngọt, giàu dinh dưỡng như những hạt cơm ở cánh đồng lúa trúng mùa. Và tôi nghĩ rằng, phải chăng nó được ấp ủ bằng mồ hôi và nước mắt của má tôi, của gia đình tôi, của người làng tôi? Vậy đó, mà tôi lớn lên từ những hạt cơm như thế. Sau này trưởng thành, trải đời, tôi ngồi ngẫm nghĩ: Một cánh đồng làng nghèo, một đất nước nghèo, một bà mẹ nghèo nuôi ta lớn khôn sẽ tốn nhiều mồ hôi nước mắt hơn hẳn những đất nước, những bà mẹ giàu có. Các nhà đạo đức gọi đó là giá trị công đức, còn tôi, xin gọi nó giản dị là một phép tính, như một với một là hai. Thế nhưng, nếu ai không làm được phép tính ấy thì sẽ thiếu đi cái nhân cách con người.
Cơm nước xong, tôi ra gốc me già trên bến sông trước cửa nhà mà ngồi suy tư. Đây là nơi má tôi hay bắc ghế ngồi trong những buổi chiều tàn để nhớ các con đi kháng chiến của mình. Cũng là nơi bà dõi mắt về phía Vàm Lẽo, nơi có lửa đạn mịt mù chen lẫn với ánh chớp của mưa đầu mùa mà lo sợ cho con đến quằn quại. Tôi nhớ năm 1972, lúc tôi và má đi thăm anh Ba Đờn, anh cứ bảo: “Ráng chờ độc lập con về cày ruộng nuôi má”. Vậy mà độc lập về, anh lại không về. Anh ra đi mãi mãi bởi một lý do thiêng liêng. Giá mà anh trở về, anh Sang, anh Hữu cũng trở về chắc chắn là ba má tôi sẽ đỡ khổ nhiều lắm. Nghĩ đến đây tôi chợt thấm thía sự hy sinh mất mát lớn lao của hàng triệu gia đình chính sách, của hàng triệu nông dân vùng bom cày đạn xới. Trong lòng tôi hình thành một quyết định mà sau đó ba má tôi quyết liệt ngăn tôi - không đi công tác nữa mà ở nhà phụ giúp ba mẹ già, thay cho các anh chị lớp chết, lớp hy sinh, lớp tiếp tục đi làm cách mạng.
Đó là thời kỳ đói kém không thể tưởng tượng nổi mà bây giờ kể ra chắc lớp trẻ ngày nay sẽ không thể tin. Cả làng tôi, nói rộng ra cả vùng nông thôn Bạc Liêu, rồi cả đất nước này, gạo phải chạy từng lon từng lít, nhất là mùa giáp hạt. Ba tôi hút thuốc gò, không có giấy báo mà cuốn, ông đi hái lá trâm bầu, lá chuối để phơi khô mà hút. Ghiền trà quá thì ông đi cắt cỏ nước mặn phơi khô để nấu nước uống thay trà. Má và em gái tôi không có xà bông gội đầu, họ phải lắng nước tro mà gội, bởi vậy thời ấy chí rận hoành hành rất dữ. Xóm có đám giỗ, người được mời chỉ mang đi đám 3 xị rượu, ai mà đi được 1 lít là có quyền ăn nói rổn rảng ở đám giỗ. Nhậu say cỡ nào cũng phải nhớ mang cái chai đựng rượu đi đám về. Có người cẩn thận còn ghi tên mình vào chai, sợ thất lạc. Nói như thế mới thấy cái thời ấy hàng tiêu dùng cực kỳ khó khăn.
Về ở hẳn nhà, công việc chủ yếu của tôi là đi bắt cá tôm để kiếm cái ăn cho gia đình và để má tôi bán ít đỉnh phụ trợ giải quyết khó khăn.
Ngẫm ra ông trời cũng công bằng lắm. Nếu “ổng” đưa nước biển vào những cánh đồng ven sông Bạc Liêu làm khó khăn, thất bát mùa vụ thì cũng chính cái dòng nước biển mặn chát ấy lại mang theo tôm cá con từ biển vào sinh sôi, nảy nở khắp đồng bưng sông rạch. Cho nên cái luật bù trừ ấy đã tạo ra cho dân quê tôi một con đường sống - nếu lúa gạo thiếu thốn thắt ngặt thì tôm cá lại hằng hà mênh mang. Lúc bấy giờ dân đô thị Bạc Liêu cũng rất đói khổ nên họ kéo ra sông Bạc Liêu hình thành những vạn chài đánh bắt tôm cá kiếm sống. Còn dân tại các xóm làng ven sông Bạc Liêu cũng lục đục xuống sông đi chài lưới. Một nghề hình thành ổn định và rất phổ biến là người ta chất chà dụ cá. Mỗi một gia đình chất vài đống chà rồi dạng vần đổi công nhau mà dỡ chà. Trên bãi sông Bạc Liêu thời ấy đầy những đống chà. Vì thế những xóm làng ven sông ngoài tên gọi cũ thì thời kỳ ấy lại có thêm tên như xóm chà, xóm chài, xóm câu… Sau năm 1975, trên sông rạch Bạc Liêu được triển khai một đời sống sông nước vô cùng phong phú của nghề chài lưới. Nó làm nên cái văn hóa triền sông và ghi đậm dấu ấn cho cư dân triền sông về tình yêu sông nước bằng sự cưu mang của sông rạch đối với con người. Để rồi con người có đi đến cuối đất cùng trời cũng không thể nào quên. Giờ đây, cá tôm không còn, nghề chài lưới cũng mất biệt, sông rạch quê hương bỗng vắng lặng như tờ, hồn sông bỗng nhạt nhòa. Tôi bỗng lo sợ tình yêu sông nước của cư dân triền sông thế hệ sau này cũng sẽ ra đi như nghề chài lưới, vì sông không còn gì để ghi dấu ấn, để nhớ.
Xin trở lại chuyện bắt cá của tôi. Sáng sớm là tôi quảy một cây chài, xách thêm tay lưới và mấy đường “câu thảy” rồi xuống xuồng ba lá mà chèo ra sông. Tôi giăng lưới, thả câu xong thì cặm xuồng rồi “chài mé”. Hồi đó sông Bạc Liêu và những nhánh rạch bắt nguồn từ nó cá tôm không sao kể xiết. Bơi xuồng trên sông, thi thoảng cá lóc, cá chẽm, cá đối… nhảy cả vào xuồng. Tôi giăng một tay lưới, tờ mờ sáng ra thăm thấy 5 - 7 con cá chẽm nặng 2 - 3kg treo lủng lẳng trên mắt lưới. Một buổi câu của tôi có khi thu về hàng chục con cá ngát, nặng cả ký. Cứ 2 - 3 ngày là tôi câu được một con cá dứa nặng 3 - 4kg. Ham nhất là mỗi bận ba tôi dỡ chà. Dỡ một đống chà thường thu về hơn trăm ký cá, đó là cá lóc, cá chẽm, cá ngát, cá đối, cá lăng, cá thát lát, tôm càng… Chuyện lạ lùng là hồi đó tôm càng, cá đối… không ai mua, chỉ chia nhau kho tàu ăn chơi. Còn các loại cá khác cũng rẻ như bèo. Nhưng dù sao cũng đỡ đần cho những năm mùa vụ thất bát, vừa có cá tôm ăn, lại bán được chút đỉnh tiền mua gạo, nước mắm, dầu lửa…
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận