(tiếp theo số báo 3423)

Minh họa: B.T
Hồi đó trên sông Bạc Liêu, vào những tháng cuối năm, nhất là dịp nước rong, chỉ cần thảy một cục cơm xuống là cá chốt bu đến nổi đầu dày đặc. Bữa nào xui xẻo, vãi chài nhầm luồng cá chốt thì chỉ có ngồi mà khóc, phải cuốn chài về, treo trên cây rồi ngồi bẻ gai cá chốt mà gỡ cả tiếng đồng hồ chưa xong. Chính vì thế mà từ rất xưa đã xuất hiện những câu ca khiếm nhã: “Bạc Liêu là xứ cơ cầu/ Dưới sông cá chốt trên bờ Tiều Châu”. Hoặc: “Bạc Liêu ăn cá bỏ đầu/ Sài Gòn thấy vậy xỏ xâu đem về”.
Thời đó, sông Bạc Liêu không chỉ nhiều tôm cá mà còn đẹp nữa. Đoạn tôi ở, sông có rất nhiều doi vịnh, bên lở bên bồi. Đôi bờ sông là hai rặng bần, mắm, dừa nước… mọc rậm rịt, chạy ngút ngàn, xanh rì làm bát ngát triền sông. Mỗi khi nước nhửn lớn, hoa bần rắc trắng mặt sông và tiếng bìm bịp dội rền kêu nước lớn, nghe âm u, trầm uất đến lạ. Thuở tôi mới “nhổ giò”, hay cùng trai gái trong xóm chèo xuồng ra chơi sông vào những đêm trăng sáng, rồi đàn hát nghêu ngao. Trăng dát bạc trên dòng sông uốn lượn, hai triền sông đom đóm lập lòe, giăng giăng trên rặng cây mà mở hội hoa đăng. Chúng tôi chèo xuồng đi trên sông mà cứ ngỡ như mình đi trên quãng đường vào chốn thiên thai. Trăng nước quê hương đã tặng cho tôi một cảm thức đầu đời về khúc tự tình của làng quê sông nước rất dịu êm và đầy mộng mơ như thế. Nó làm dịu nhẹ những hằn sâu trong tâm hồn tôi những đói nghèo, những đau thương mất mát.
Nếu sáng tôi đánh cá dưới sông, thì chiều tôi lên đồng. Cũng vai mang giỏ, tay xách một mớ cần câu cắm và một tay lưới. Nếu dưới sông tôm cá bao nhiêu thì trên đồng cá tôm cũng bấy nhiêu. Cá đồng có, cá nước lợ có. Tháng 8 âm lịch đổ về ra Giêng, vào những con nước rong, tại các đầu kênh, mặt đập cá kèo nổi dày đặc mà nông dân quê tôi thời đó gọi là “cá kèo nổi như mù u rụng”. Còn mùa sa mưa thì khắp đồng ruộng nhiễm mặn mà nông dân gọi là đất thào lềnh thì vô số cua biển, vọp… chỉ cần ra đồng bắt một tiếng đồng hồ là không cách gì ăn hết. Nhưng khổ nỗi thứ này thời đó bán không ai mua nên tôi phải xoay qua cắm câu, giăng lưới ở sông cũ và những ruộng được giữ ngọt nên có cá đồng bán sinh sống. Tôi cắm 50 cần câu, bằng mồi nhái con, lẫn mồi trùn đất. Cứ cắm hết số cần câu là tôi lội vòng trở lại mà gỡ cá. Cá ăn câu quẩy xồn xộn trong đêm như ma nhát. Tôi gỡ xong giác câu là đã quảy không nổi, phải mang cá về nhà cho má tôi trọng đầy lu, đầy khạp. Đó là những con cá lóc nặng cả ký lô, những con cá trê mập ú, to bằng bắp tay. Sáng sớm là má tôi mang cá lên xóm Cả Vĩnh bán. Tuy nó không nhiều tiền nhưng cũng góp phần gỡ gạc khó khăn cho gia đình lúc thắt ngặt. Từ ngày tôi về phụ giúp việc nhà, ba má tôi đỡ cực một chút, ông không còn đi gặt mướn như xưa, căn nhà lá nhỏ cũng được cơi nới ra bằng cột cặm cây rừng.
Mãi cho đến tận bây giờ, mỗi lần nhớ về sông nước đồng quê ngày bé là tôi xúc động. Đất quê ta giống như người mẹ nhân từ, luôn ấp ủ dung dưỡng những đứa con quê. Và tâm hồn ta, nhân cách của ta cũng từ ấy mà hình thành, lớn lên. Làng tôi trải bao đời là một xóm nhỏ rất nghèo. Cả xóm chỉ vài chục nóc gia, đó là những căn nhà lá nhỏ nằm trong một cụm rừng chồi. Trước mặt nhà là bến sông Bạc Liêu, sau hậu là một cánh đồng mà mùa hạn là đồng khô cỏ cháy, mùa mưa thì cỏ dại lợp xanh cánh đồng. Và khi chiều tàn, hoàng hôn nhuộm tím dòng sông, tím cả cánh đồng. Ai đốt rơm rạ ngoài đồng mà khói đốt dâng cao, lừng lửng làm tím cả lòng ta. Những năm lớn lên đi xa, tôi cứ nhớ mãi ánh lửa un trâu và mùi khen khét của nó trong chiều cuối năm. Nhớ khói đốt đồng trong một buổi chiều tím. Nhớ tiếng nhái bầu ngắc nga và tiếng chim vịt kêu chiều vào mùa nước nổi, hòa với tiếng ru con của má tôi: “Chiều chiều ra đứng bờ ao/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Để rồi mấy chục năm đi xa, tôi đứng ở đầu ghềnh cuối bãi mà ngó về quê mẹ bằng một tình cảm thổn thức như câu ca ngày cũ.
Tôi ở nhà được hơn một năm thì anh Sang, anh Hữu và cả ba má tôi quyết liệt buộc tôi phải đi học trường công nông vì có chế độ là gia đình liệt sĩ, vào năm 1977. Thế là tôi lại khăn áo lên đường rời khỏi làng quê trên chiếc xuồng của má tôi.
Trường tôi học là Trường bổ túc văn hóa Công nông huyện Vĩnh Lợi. Là trường để bổ túc văn hóa cấp tốc cho cán bộ. Đã vào trường này rồi là hiển nhiên trở thành cán bộ. Được phân phối các chế độ gạo thóc, thuốc men, nhu yếu phẩm như cán bộ. Trong trường có khoảng 30% học viên là cán bộ, số còn lại là con em gia đình liệt sĩ. Vì là trường dạy chương trình cấp tốc nên chúng tôi học như chạy giặc, mỗi năm 3 lớp.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận