(tiếp theo số báo 3424)

Ảnh minh họa: Internet
Vậy là ba má tôi lại phải tiếp tục cuộc mưu sinh đầy vất vả. Mỗi lần tôi về mang theo nửa ký đường cát, một bịch xà bông, một bịch bột ngọt… tiêu chuẩn được phân phối của học viên - cán bộ, là má tôi nằm võng cười tủm tỉm một mình, vẻ mặt tràn đầy mãn nguyện, cứ y như cả đời bà tảo tần, dãi dầu mưa nắng nuôi tôi khôn lớn giờ đã đến lúc bà được thụ hưởng thành quả của mình.
Sau giải phóng, Nhà nước có chủ trương di dời một phần khá đông dân thành thị về nông thôn. Gọi là đi kinh tế mới. Đây là cuộc điều chỉnh lực lượng lao động cho mặt trận nóng bỏng là “tất cả cho cây lúa”. Nhà nước tiến hành điều chỉnh lại ruộng đất. Lấy đất của những người giàu có cấp cho dân nghèo và dân thành thị đưa về.
Nhà nước phát động phong trào khai hoang phục hóa và thâm canh tăng vụ, làm lúa hè thu. Đây là cuộc phát động quyết liệt, mang tính sống còn, kết hợp với công tác ba thu. Mới kết thúc chiến tranh, bom mìn còn sót lại rất nhiều. Dân đi khẩn hoang đất mới hoặc phục hóa ruộng cũ đã có nhiều người chết thương tâm vì dẫm phải bom mìn.
Nghỉ hè năm đó tôi về nhà, thấy ba má tôi hưởng ứng phong trào khai hoang tăng vụ bằng cách phát quang dọn miếng rừng đầu doi sau nhà để chỗ thấp thì trồng lúa hè thu, chỗ cao thì trồng cao lương theo chủ trương của Nhà nước và trồng đậu đũa, khoai lang, khoai mì, khổ qua… Sáng tờ mờ là má tôi hái đồ rẫy ấy mà bơi xuồng qua sông để lên xóm Cả Vĩnh bán, với một gánh nặng 40 - 50kg. Ngày này sang tháng khác, cuộc tần tảo của má tôi vẫn thế. Đôi vai bà mọc lên những nốt chai sần.
Năm 1978, bà con nông dân vùng ĐBSCL - một vựa lúa lớn nhất cả nước được nếm trải cái đói thật sự. Trong lịch sử đất Bạc Liêu và cả vùng ĐBSCL này không thấy ghi nạn đói, kể cả năm 1945 nạn đói làm cho miền Bắc chết 2 triệu người. Vậy mà năm 1978, cán bộ thì ăn gạo mốc, ẩm vàng, còn nông dân thì bắt đầu ăn độn khoai và dân đô thị thì ăn cơm độn bột mì.
Khoai mì, khoai lang thu được trên rẫy vừa khẩn hoang má tôi đem chặt nhỏ, phơi khô rồi tới bữa mang ra cho vào 50% so với gạo để nấu nồi cơm được đầy, đủ cho gia đình ăn. Nồi cơm khoai đó mấy bữa đầu thì ăn ngon lắm, nhưng từ đó trở về sau những con dân của một dân tộc có truyền thống ăn cơm hàng ngàn năm nhìn khoai sắn là đâm nổi da gà. Ba đứa em tôi cứ chọn chỗ cơm nhiều khoai ít mà bới ăn. Còn má tôi thì thường vào bữa cơm khi nó gần tàn. Bà có cái lý do riêng của mình. Đó là bữa cơm mà ở dưới đáy nồi còn lại toàn những khoai sắn. Bà ăn chậm rãi, theo kiểu “ăn như ai ăn” mà nông dân thường nói. Và mắt má tôi đầy lo âu, ray rứt. Cái cách ăn cơm của má tôi, đôi mắt ray rứt của bà cũng đã làm ray rứt trong tôi suốt những năm lớn khôn.
Trên mảnh đất đầu doi vừa khai phá, ba tôi dành hơn một công đất để sạ lúa hè thu, theo chủ trương của Nhà nước. Thu hoạch lúa xong, má tôi dùng cối giã rồi sàng ra gạo. Đây là chiếc cối của thời đại chưa có công nghệ xay xát. Trước năm 1975, khoảng 2 - 3 thập kỷ, dân Bạc Liêu đã không còn giã gạo bằng cối chày vì đã có máy móc làm thay. Thế nhưng khi hòa bình về, xăng dầu bắt đầu khan hiếm, các nhà máy ít hoạt động hoặc xay lúa cho Nhà nước mà cung cấp gạo cho Trung ương. Từ đó vùng Bạc Liêu bắt đầu khôi phục chiếc cối xay lúa thủ công. Nhiều cơ sở sản xuất cối cũng ra đời.
Bữa cơm đầu tiên của vụ lúa hè thu làm trên mảnh đất đầu doi được dọn ra. Lúc đó tôi nghỉ hè ở nhà. Nồi cơm gạo mới không có khoai sắn thơm đến nức mũi. Chỉ ăn với cá kho quẹt thôi mà cả gia đình tôi ngồi ăn đến vã mồ hôi hột, cảm thấy vị gạo béo và ngọt đến tận xương tủy. Mới hay lúc nghèo đói ta mới thấu hiểu vì sao người xưa gọi gạo cơm là hạt ngọc của trời đất. Còn tôi thì từ đó bị ám ảnh cả đời. Đã 40 - 50 năm trôi qua rồi, nạn đói kém đã đi về thật xa trong dĩ vãng, vậy mà bây giờ gặp một cánh đồng vàng ươm bổi hổi lúa chín là tôi dừng xe, ngồi lại để ngắm nhìn mê mải và hít lấy hít để cái hương lúa mới nồng đượm đang dậy lên làm ngập ngụa đất trời. Rồi quý yêu đồng lúa, quý yêu hạt ngọc của đất trời. Sự đói kém có khi cũng tặng cho ta một nhân cách vậy!
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận