(tiếp theo số báo 3425)

Cấp phát nhu yếu phẩm thời bao cấp. Ảnh: T.L
Mới ăn được nửa bữa cơm của mùa lúa mới, đám con thằng Cảnh, 4 đứa (1 gái, 3 trai), duy nhất chỉ có đứa con gái là mặc quần còn lại là ở truồng, kéo đến đứng nhìn chòng chọc vào mâm cơm bằng những con mắt đói. Chúng xanh xao quá. Chúng gọi tôi bằng bác, vì thằng Cảnh với tôi là cô cậu ruột. Má tôi gốc gác ở Bảy Ngàn, Cần Thơ. Ông bà ngoại tôi mất rất sớm, má tôi và cậu Út - cha thằng Cảnh - phải ở với ông chú bà thiếm, thuở năm 3 tuổi. Rồi ông chú qua đời, khi có chồng về Bạc Liêu má tôi phải dắt díu theo một người em mồ côi mồ cút. Rồi cậu Út chết vì chiến tranh, mới 21 tuổi, mợ Út thì đi lấy chồng xa, má tôi phải mang thằng Cảnh về nuôi rồi sau đó, ba tôi cầm trầu cau cưới vợ cho nó, lại cất một căn chòi, cho mấy công đất để nó ra riêng. Thằng Cảnh sống bằng nghề cắm câu vì thời đó, mấy công đất không thể sống nổi. Nhưng nghề cắm câu cũng nuôi không nổi 4 đứa con. Mấy tháng nay, nhà nó thường ăn cháo hoặc cơm độn khoai. Và chỉ ăn mỗi ngày một bữa. Má tôi giấu đút cho khoai, cho gạo. Bà đi bán cá dùm cho nó. Đời sống gia đình khổ quá, buồn đời thằng Cảnh đâm uống rượu. Rồi không biết từ hồi nào nó trở thành kẻ đổ đốn. Má tôi giận, bà trách mắng vì nói mãi mà nó không nghe. Từ đó thằng Cảnh cũng giận cô ruột của mình.
Nhìn 4 đứa con thằng Cảnh, ba tôi ứa nước mắt, rồi bảo: “Bà bới cho mỗi đứa một chén đi”. Má tôi bới cơm cho tụi nó mà giọt ngắn giọt dài. Bọn trẻ ăn ngấu ăn nghiến, ăn chưa hết chén cơm thì thằng Cảnh bước vào, mặt đằng đằng sát khí và đỏ gắt vì rượu, nó lôi nó kéo, nó đấm nó đá 4 đứa con, rồi hét toáng lên: “Ai cho tụi mày đi ăn chực người ta”.
Ba tôi buồn xo, còn má tôi thì uất nghẹn - bà có một nỗi buồn máu mủ sâu xa không nói được thành lời. Cả nhà tôi bỏ ngang bữa cơm gạo mới thơm lừng năm đó.
Mấy năm sau, vùng Cà Mau phát triển nghề nuôi tôm quảng canh, thế là trai tráng vùng Bạc Liêu xuống Cà Mau đào đất mướn “sạch sành sanh”. Có lúc cả xóm không còn lấy một gã trai tráng “làm thuốc”. Thằng Cảnh cũng vác vá đi đào đất mướn.
Có lần tôi đi công tác ở huyện Ngọc Hiển, Phó Chủ tịch UBND huyện đồng thời là một chủ vuông tôm lớn rủ tôi về nhà chơi. Tối, vợ chủ nhà là một phụ nữ đẫy đà đeo vàng đỏ cổ, đỏ tay chọn tôm to, nấu một nồi cháo rồi cho vào một ít bong bóng cá đường để bồi dưỡng cho chồng và đãi khách. Ăn gần tàn nồi cháo, vị Phó Chủ tịch bảo vợ: “Thằng cha đào đất mướn còn ở đây không? Em múc cho nó phần cháo dư này”. Chị vợ nói: “Còn, nhưng nó bệnh quá, không tiền về quê, tôi kêu nó ra sau hè ngủ, dân không biết gốc rễ, nửa đêm nửa hôm nó chết trong nhà mình thì ách giữa đàng mà quàng vào cổ”. Khuya, tôi mở cửa ra sau đi “vệ sinh sinh thái”, mưa rừng rất nặng hạt, gió quất nghiêng ngả cánh rừng đước sau nhà, thấy một người ngồi co ro ở mái hiên và run cầm cập. Tình người nổi lên, tôi đến hỏi: “Bệnh có nặng lắm không?”, anh ta nhào đến ôm tôi, da thịt nóng như lửa, rồi thều thào: “Em nè!”, tôi thất thần, tay chân bủn rủn, quá ra kẻ cơ nhỡ kia chính là thằng Cảnh!
Ba giờ khuya đêm ấy tôi bắt tàu đò, chở đứa em máu mủ, mồ côi mồ cút của mình về quê.
Đời sống sau chiến tranh khổ không sao kể xiết. Ba má tôi mới cất được căn nhà kê tán bằng cột gỗ tràm, đó là niềm mơ ước cả đời của hai ông bà già, thế mà 3 năm không có tiền mang cây còng trước nhà đi xẻ ra ván mà đóng tuồng cửa trước. Mấy năm đó tôi về quê ăn tết với gia đình, gió bấc lạnh căm cứ thổi thông thốc từ trước ra sau, làm tốc mùng màn. Má tôi lấy khăn đội “choàng hầu” cho đỡ lạnh, ba tôi thì có cái áo vét-tông mà anh Ba Hóa ở Sài Gòn gửi cho hàng chục năm trước để mặc. Thằng Mỹ - em út của tôi thì móc một lỗ rơm rồi chui vào ngủ trốn rét. Thấy vậy tôi cũng chui vào ngủ với nó.
Hồi đó khổ nhất là quần áo tết. Má tôi có mỗi cái áo nylon ba tít màu đỏ đỏ được gọi là áo mới, bà mặc chiếc áo ấy mừng tết đến 5 - 7 mùa xuân đi qua và cho đến khi bà nằm xuống, chính cái áo ấy được mặc vào cho bà để má tôi đi về với ngàn thu.
Còn anh em chúng tôi thì mặc áo mới từ nguồn do Nhà nước phân phối. Trước khi tôi đi học trường Công nông, năm đó Nhà nước cấp bán cho gia đình tôi một loại vải thun màu tím rất đẹp, giống y như vải xăng-dót của Pháp, ba và anh Hữu nhường phần cho tôi và thằng út Mỹ đủ mỗi đứa một bộ đồ. Bác Bảy thợ may ở xóm may cho 2 thằng 2 bộ đồ theo kiểu lục quân, túi có nắp, trên vai có con đỉa và có chỗ giắt viết. Đây là model thịnh hành của thanh niên nông thôn thời mới hòa bình. Nó được lấy từ kiểu mẫu quần áo của mấy anh giải phóng oai hùng thời chiến tranh. Tôi mặc đồ mới vào, đi ra đường ngông nghênh cứ tưởng mình là hoàng tử. Má tôi lấy đi giặt cho nó hết bụi phấn may đo. Sáng mồng Một tết, tôi mặc vào và tôi bật khóc ngon lành như một đứa trẻ, vì áo rút lại còn nhỏ xíu. Tôi mặc giống như “đồ khín”, ống quần rút lên khỏi bàn chân cả tấc mà người ta hay bảo “chó táp 3 ngày chưa tới”. Khi tôi đi học trường Công nông, tài sản chỉ có 2 bộ lành và 1 chiếc khăn rằn, 1 cái quần cụt má tôi mới sắm. Mà hồi đó cả mấy trăm bạn học tôi họa hoằn chỉ có 1 - 2 đứa con nhà khá giả là đủ quần áo mặc. Xã hội lúc ấy là thế, vải vóc mắc mỏ như vàng, quần áo cũ cũng là vàng, dịch vụ bán quần áo cũ đầy ở các chợ. Đi Cà Mau mà lỡ hết tiền chỉ cần lấy cái áo cũ ra bán là có thể ăn hủ tiếu, nhậu 1 lít rượu đế vẫn đủ tiền tàu xe đi về. Nói quần áo quý như vàng chứ vàng mới quý thật sự. Gia đình nông thôn, có con trai chuẩn bị cưới vợ, cái khổ đầu tiên là không đào đâu ra nổi 5 - 7 phân vàng 9 để làm bông cưới cho dâu - một sính lễ bắt buộc phải có. Má tôi chỉ có chiếc vòng (vàng 10K) sính lễ cưới bà ngày xưa, bà giữ như giữ kho báu, đến khi anh em tôi lớn lên bà đành phải chia tay nó là phân ra thành 3 đôi bông để cưới vợ cho tôi, anh Sang, anh Hữu.
Không sao kể hết những khó khăn, vất vả trong những năm đầu giải phóng. Thôi thì đành kết thúc nó tại đây để nói chuyện khác cho quyển sách này.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận