(tiếp theo số báo 3437)

Sông Bảy Háp (Cà Mau). Ảnh: Internet
Và rất không may, cho đến thế hệ sau chuyến tôi đi bắt ba khía ít lâu, tất cả đã lùi về dĩ vãng. Rừng đước Cà Mau đã không còn ngày hội ba khía. Con ba khía cứ mất dần đi. Để rồi cái con ba khía Rạch Gốc nổi danh Nam kỳ lục tỉnh hồi đầu thế kỷ XX cũng mất dần thương hiệu.
Sau giải phóng năm 1975, chúng ta chẳng những đói ăn mà vật liệu cất nhà, chất đốt cũng thiếu thốn trăm bề. Dân số thì bùng nổ mà nguồn sống thì ngày càng cạn kiệt, dân nghèo quen dựa dẫm vào bà mẹ thiên nhiên như một lối sống, càng nghèo họ càng dựa dẫm, càng bú mớm một cách bạo liệt khiến mẹ thiên nhiên không còn “sữa” nữa, thân thể còi cọc, xác xơ.
Thập kỷ 80 của thế kỷ XX là thời điểm nổ ra tình hình dân ùn ùn đi vào rừng đước Cà Mau đốn cây, củi lậu, mặc dù chính quyền đã thiết lập một hệ thống kiểm lâm dày đặc. Đã có nhiều chuyện thương tâm, kiểm lâm bắn chết người chở cây, củi lậu hoặc xuồng ghe chìm vì sông sâu nước chảy, vì ghe đâm vào cột hàng đáy sông làm chết dân đốn gỗ…
Đến nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX trở về sau, phong trào nuôi tôm quảng canh rồi tiến lên thâm canh, sau nữa là nuôi tôm công nghiệp nổ ra, chính con tôm là thủ phạm giết rừng còn bạo liệt hơn cả thời kỳ đỉnh cao đốn cây, củi lậu làm vật liệu cất nhà và chất đốt. Bởi vì con tôm lấn rừng, người nuôi tôm phá rừng để dành đất cho những ao tôm. Đi trên sông Bảy Háp, sông Ông Trang… đó là những con sông nằm giữa ruột của cánh rừng đước Cà Mau nổi tiếng ta sẽ bị đánh lừa, ven đôi bờ sông rừng đước vẫn xanh rì, ngút ngàn thế nhưng tàu cập bến bất kỳ chỗ nào ta bước lên bờ và bắt gặp cảnh hoang tàn, ngổn ngang. Ở đó những vuông tôm mới hình thành, rừng đước bị đốn sạch, trống hoang, chỉ còn lại lổn ngổn những chang đước đen xì mục dần dưới ánh nắng chói chang của xứ nhiệt đới. Chuyện đến bây giờ người ta vẫn còn nhớ là một vài cán bộ Tỉnh ủy tiếp tay phá rừng, bao ví bãi bồi đã bị kỷ luật, xử lý…
Rừng vàng là thế, còn biển bạc của Minh Hải thì sao? Xin trả lời ngay nó cũng cùng chung số phận của rừng trong cái thời đại con người dựa hẳn vào thiên nhiên mà sống.
Có một tính toán trên cơ sở khoa học rằng, nếu tính vùng lãnh hải, thềm lục địa thuộc chủ quyền của chúng ta thì biển Việt Nam lớn gấp 3 lần Việt Nam lục địa. Còn Minh Hải biển lớn hơn Minh Hải lục địa đến 8 - 9 lần. Cái đặc biệt nữa là, xét về mặt nguồn lợi hải sản thì Minh Hải biển có trữ lượng tôm cá vào bậc nhất nước. Trong cẩm nang nghề cá của Bộ Thủy sản ghi vào thời điểm bấy giờ là 100% loài cá, tôm của biển Việt Nam đều có mặt ở vùng biển này. Trữ lượng cá ước tính đến 750.000 tấn, sản lượng khai thác có khả năng đạt 300.000 - 350.000 tấn/năm. Trữ lượng tôm ước tính 25.000 - 30.000 tấn. Ngoài ra còn có 7.000 - 8.000 tấn thủy đặc sản như: sò, điệp, mực, cua, nghêu…
Minh Hải biển đã thể hiện sự giàu có đầy sắc thái của mình. Tại trung tâm tam giác của ba đảo Thổ Chu, Nam Du, Hòn Chuối, cách đất liền khoảng 50 hải lý có một cái đặc biệt mà biển các nơi khác không có, đó là mỏ tôm hay gọi theo cách gọi của ngư phủ nước ngoài là “tam giác vàng”. Theo tài liệu điều tra của FAO (Tổ chức Lương thực Thế giới) vào năm 1972 và theo kết quả điều tra theo đề tài 0801-85 của Bộ Thủy sản thì nơi đây, hàng năm, mỏ tôm này cung cấp cho Minh Hải khoảng 700 - 800 tỷ con giống. Và cũng tại nơi đây, dưới lòng biển, các ngư phủ gọi là “rạng mực”. Thực chất nó là tầng các rạng san hô và mực đã dựa vào làm ổ để sinh sản. Một ghe có thể câu một đêm đã thu vài tấn mực.
Năm 1982, như duyên số bày đặt, tôi đi xuống cửa biển Sông Đốc để viết báo về nghề cá thì được tận mắt chứng kiến một kỳ thú của biển. Hơn 40 năm rồi tôi không nhớ tên chủ ghe, chỉ nhớ đó là một chiếc ghe làm nghề đánh lưới biển.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận