(tiếp theo số báo 3439)

Hòn Đá Bạc (tỉnh Cà Mau). Ảnh: Internet
Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chúng ta đã có ý thức bảo vệ nguồn lợi thủy sản bằng những chủ trương, quy định… từ Trung ương xuống, là khuyến cáo ngư dân không được đánh bắt tuyến ven bờ vì đây là chiếc nôi sinh sản tôm cá của biển. Quy định mắt lưới và loại nghề không sát hại tôm cá con…, rằng phải vươn ra đánh bắt xa bờ.
Nhưng các quy định, chủ trương… này không đối phó được với một ngành đánh cá được phôi thai từ ý thức hệ của những công dân cư ngụ tại một vùng biển quá giàu có: “Chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn”. Lúc đó thống kê Minh Hải có khoảng 4.000 chiếc tàu thuyền đánh cá nhưng tổng công suất chưa đến 100.000 mã lực (CV). Như vậy, bình quân mỗi chiếc mới đạt 24CV. Nếu muốn đánh bắt ngoài tuyến khơi, tàu phải đạt công suất từ 200 - 250CV. Do vậy có thể kết luận rằng toàn bộ ngành đánh cá Minh Hải chỉ có thể triển khai đánh bắt tuyến ven bờ. Thực tế tuyến ven bờ là ngư trường truyền thống, là cung cách làm ăn lâu đời của ngư dân Minh Hải. Thật là nhức nhối, các nhà hải dương học trên thế giới kết luận rằng: Tuyến ven bờ chính là nơi sinh sản, là chiếc nôi của tôm cá của đại dương. Và chuyến đi ấy tôi đã tận mắt nhìn thấy người ta đã cày xới, phá nát chiếc nôi của biển xanh thế nào.
Khi tàu chúng tôi đến Hòn Đá Bạc, một hòn đảo nhỏ cách đất liền khoảng 1km, thì đã thấy khoảng 200 chiếc tàu đánh cá loại nhỏ, chạy máy diezen Trung Quốc, làm nghề đẩy te (đây là nghề cấm). Chúng đưa hai gọng kìm, mang theo tấm lưới mắt rất nhỏ, thi nhau sục sạo trong một phạm vi 3km tuyến sát bờ, làm cho nước biển ở đây đục ngầu. Thấy tàu kiểm ngư, lập tức như ong vỡ tổ, 200 chiếc tàu nổ hết tốc lực chạy bán sống bán chết để thoát thân vào cửa biển. Khói máy mù mịt, biển thì ngầu đục. Lực lượng kiểm ngư xuống ca-nô đuổi bắt chí mạng gom về được hơn 30 chiếc. Tất cả chỉ có một chiếc có giấy tờ, còn lại đều vi phạm quy định bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Mỗi chiếc ghe bị phạt 200.000 đồng vì vi phạm nghề cấm, vùng cấm khai thác. Trên mỗi chiếc ghe có từ 3 đến cả chục cần xé đựng tôm, cá con. Tôi hỏi một chủ ghe: “Mỗi cần xé này anh bán được bao nhiêu tiền?”. Anh ta đáp: “20.000 đồng”. Tôi bật thốt: “Sao làm ăn gì mà đoản hậu quá”. Vì 20.000 đồng mà người ta nỡ giết hàng tấn tôm, cá của năm sau.
Tàu chúng tôi chạy dọc tuyến ven bờ của Vịnh Thái Lan qua biển Đông, cảnh tượng vô cùng nhức nhối. Hàng ngàn miệng đáy hang khơi, hàng trăm ki-lô-mét đăng mành xanh, rồi nghề đẩy te, nghề cào… Đó là những nghề hủy diệt tôm, cá hàng loạt đang bao ví, chặn bắt khắp tuyến ven bờ Minh Hải. Tại vùng bãi bồi phía Tây huyện Ngọc Hiển, nơi mỏ tôm Vịnh Thái Lan cung cấp cho vùng này không biết bao nhiêu tôm cũng diễn ra nạn bao ví, đánh bắt ráo riết như thế. Phía xa hơn, tại mỏ tôm, hay còn gọi là tam giác vàng thì có 500 miệng đáy hàng khơi và vài trăm chiếc tàu đang cố tình quậy nát vùng biển. Làm cho mỏ tôm trứ danh mất dần phiên hiệu và sau cùng thì bị kết liễu một cách oan uổng. Theo đó, tại bãi giao vĩ cá đường, hàng ngày có mấy trăm chiếc tàu hành nghề cấm khai thác đó là cào đôi. Hai chiếc tàu, mở hết công suất, cùng kéo theo tấm lưới, dưới tấm lưới là sợi dây to bằng nắm tay, nó có nhiệm vụ rà soát dưới đáy biển để tôm, cá nhảy lên, chui vào lưới. Chính sợi dây này đã làm gãy đổ tất cả rạn san hô trên đường đi qua của nó. Mà Viện Hải dương học thì cho rằng: triệt tiêu các rạn san hô dưới lòng biển cũng như phá hủy rừng trên lục địa. Cá tôm sẽ giống như thú rừng không còn chỗ sống và sinh sản.
Từ đó biển Minh Hải không còn xuất hiện những điều kỳ thú nữa. Đã rất lâu rồi, có lẽ cũng phải mấy chục năm, không còn ai thấy hội cá đường.
Có thể nói rằng, thập niên 80 của thế kỷ XX là thời kỳ cùng với cả nước nền kinh tế Minh Hải bị khủng hoảng trầm trọng, dẫn đến chúng ta sống dựa dẫm khai thác một cách bạo liệt làm cho tài nguyên thiên nhiên suy kiệt. Có những thứ quý giá thuộc về đặc trưng, bản sắc, về sự giàu có của vùng đất mãi mãi ra đi. Tôi viết điều này ra không để trách cứ ai cả, hoàn cảnh lịch sử nó như thế, chúng ta phải sống như thế. Tôi chỉ có thể chia sẻ với quê hương và chúng ta để mà “ôn cố tri tân”. Ngay từ thuở hồng hoang, dân tộc ta đã có một truyền thuyết đầy tự hào: Từ núi rừng, mẹ Âu Cơ đã từ giã cha Lạc Long Quân để đưa một nửa người con đi về phía biển để mà sinh sống, giữ biển. Từ rất xưa ông cha ta đã mở mang bờ cõi cho đất nước được hài hòa. Tôi trộm nghĩ, thế hệ hôm nay và con cháu chúng ta sẽ hiểu và tiếp nối truyền thống ấy.
(còn nữa)
Nhà văn Phan Trung Nghĩa

Truyền hình







Xem thêm bình luận