ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 21-9-24 02:18:46
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nghề hầm than đen mặt, sáng lòng

Báo Cà Mau (CMO) Ở Cà Mau có nghề hầm than đước đã tồn tại ngót trăm năm. Qua nhiều biến cố lịch sử, nghề này cũng thăng trầm theo thời gian. Hiện nay, nhu cầu về than đun nấu và than dùng trong công nghiệp rất lớn nên cần có hướng mở để nghề chế biến than phát triển bền vững.

“Không nhớ rõ những lò than ấy có từ bao lâu rồi, chỉ nghe cha tôi kể lại, từ những năm 1920, khi vừa tới đây sinh sống đã có những lò hầm than đước tại xứ Chợ Thủ (nay là xã Tam Giang Tây, huyện Ngọc Hiển). Nhưng đến mãi năm 1954, nghề hầm than đước này mới rộ lên nhiều, trải dài từ xã Tân Duyệt cho đến xã Tam Giang Tây (tính theo vị trí hiện nay). Từ năm 1955, than đước Cà Mau đã được bán khắp Nam Kỳ lục tỉnh”, bà Tư Phiến (Dư Thị Phiến), người từng có thời gian dài gắn bó với nghề hầm than đước tại Chợ Thủ, nhớ lại.

Sau khi phân loại, than sẽ được cho vào bao, cân và chuyển đi tiêu thụ.

Một thời hoàng kim

Bà Tư Phiến, một người lớn lên từ thủ phủ của nghề hầm than đước Cà Mau, nay đã 79 tuổi, cho biết, nghề này đã gắn liền với ký ức thuở thanh xuân của bà. Bà vẫn nhớ như in những ngày tháng huy hoàng của nghề khi ấy.

Vào những năm 50 của thế kỷ trước, khi những cánh rừng đước còn bạt ngàn, đước dùng để hầm than chỉ lấy phần thân, không dùng phần gốc như bây giờ. Các lò hầm than lớn nhỏ trải dài, nhưng tập trung nhiều nhất tại khu Chợ Thủ, có đến 200 lò.

Lò than lớn khi đó có thể cho ra những mẻ than hơn 20 tấn, tương đương 40-45 m3 gỗ. Được dùng nhiều cũng có nguyên do của nó, bởi so với những loại than gỗ lúc bấy giờ thì than đước cháy lâu hơn, nhiệt cao hơn nên người dân chuộng dùng.

Gia đình bà Tư Phiến ngày xưa cũng có 2 lò hầm than lớn, do anh bà làm chủ. Nguồn kinh tế chính của gia đình lúc ấy nhờ vào những lò than. Nhu cầu buôn bán than tăng cao, người người, nhà nhà đều xây lò hầm than để bán. Những lò than dọc theo triền sông của Chợ Thủ mọc lên như nấm, lúc nào cũng nghi ngút khói.

Bà Tư Phiến hồi tưởng: “Thấy cái lò lớn mấy chục mét khối vậy chứ không có miếng xi-măng, cốt thép nào như bây giờ. Lò được xây chỉ từ gạch thẻ và bùn dưới sông mà to chừng ấy. Cái nóc lò hình bầu dục, không cần một khung giá đỡ mà chỉ nhắm chừng xây dần lên như vậy”.

Chủ những lò than là người dân tại địa phương, còn “tay rìu” là người dân tứ xứ. Thời đó dân cư thưa thớt, người đốn củi phải vào sâu trong rừng để chọn những cây đước lớn, vì than làm từ những cây lớn có giá hơn.

Dù nguy hiểm, cực khổ nhưng các “tay rìu” bấy giờ nhiều vô số kể, bởi lẽ không chỉ cung ứng củi đước tại Cà Mau, mà củi còn được chở đến tận xứ Sóc Trăng, Hậu Giang nên nghề này nuôi đến hàng ngàn dân nghèo.

Rồi đến đầu năm 1960, quân dân ta phát động phong trào Đồng khởi lật đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giặc càn quét lực lượng của ta ngày đêm, những lò than bị bom đạn phá sập, rừng đước chết trụi bởi chất độc dioxin, người dân phải bỏ nhà cửa, chuyển vào rừng để tránh đạn. Những lò than nguội lạnh kể từ đó.

Hầm than tuy vất vả nhưng nhiều người vẫn quyết tâm theo nghề.

Thời của than xuất khẩu 

Khi hoà bình thống nhất, người dân trở lại quê hương. Chính quyền cách mạng tập trung tái thiết nên việc quản lý khai thác rừng cũng nghiêm ngặt hơn, người dân thiếu nguồn cung củi, nên đa phần bỏ sang làm nghề khác. Những lò than lớn không còn, chỉ còn những lò hầm than nhỏ dùng cho gia đình.

Đến những năm 2000, chỉ còn lại một số ít người làm nghề hầm than, do việc sản xuất than đước gây không ít khó khăn trong công tác quản lý tài nguyên. Đa phần những hộ làm than tại địa phương là những hộ nghèo, nguồn kinh tế chính của gia đình phụ thuộc vào những mẻ than nhỏ.

Để đưa nghề này vào quy củ, năm 2006, chính quyền địa phương đã tìm hướng mở cho người dân làm nghề này bằng cách tập trung họ lại thành lập những hợp tác xã (HTX) hầm than đước. Việc thành lập các HTX góp phần giúp việc quản lý khai thác rừng thuận lợi hơn và giúp cái nghề ngót gần trăm năm tuổi của Cà Mau được lưu giữ.

Điển hình như HTX hầm than đước Tân Phát, xã Tân Ân Tây, huyện Ngọc Hiển với 12 thành viên cùng góp vốn. Hơn 10 năm hoạt động, quy mô ngày càng mở rộng, nay đã có 21 lò với sản lượng bình quân mỗi tháng gần 100 tấn than đước, bán đi khắp cả nước.

Cô Lê Thị Bích, thành viên HTX, cho biết: “Than ở đây ra lò có chất lượng cao nên nhiều nơi rất chuộng. Hiện tại sản phẩm của HTX không chỉ bán trong nước mà còn xuất khẩu”. Cô Lê Thị Bích cho biết, năm vừa rồi HTX Tân Phát đã xuất khẩu qua Ả Rập 50 tấn than ngọn (loại than có đường kính nhỏ, thường là ở phần ngọn của cây đước).

Cũng tại xã Tân Ân Tây, HTX hầm than đước Đồng Khởi vừa ra đời hơn 1 năm nay, có 9 lò hầm than với trữ lượng 6-8 tấn thành phẩm mỗi lò. Các lò được đặt tại mỗi hộ thành viên chứ không tập trung như HTX hầm than đước Tân Phát, nhân công chủ yếu là người trong gia đình phụ trách. Anh Nguyễn Thanh Tùng, Giám đốc HTX hầm than đước Đồng Khởi, cho biết: “Quy mô của những lò than tại HTX nhỏ, ít tốn chi phí thuê mướn nhân công nên thu nhập của chủ các lò than khá ổn. Bình quân mỗi lò trừ đi các chi phí ban đầu, thu nhập trên 10 triệu đồng/tháng”.

Tưởng chừng như đã lụi tàn, nhưng một lần nữa nghề hầm than lại vươn mình sống dậy. Hiện nay, giá than đang dao động từ 10.000-11.000 đồng/kg bán ra từ lò. Với mức giá này, tuy lời lãi không cao nhưng cũng giúp người dân làm nghề hầm than có cuộc sống ổn định hơn.

Rồi đây nghề hầm than đước Cà Mau có phát triển hơn thời hoàng kim những năm 1955-1960? Dù sao thì việc sản xuất than đước cần sự quan tâm nhiều hơn nữa để nó phát triển bền vững, để cái nghề trăm năm của xứ Mũi Cà Mau vẫn trường tồn./.

Ông Đỗ Văn Sơ, Chủ tịch Liên minh các HTX tỉnh Cà Mau, cho biết: “Hơn 100 năm hình thành và duy trì, đến nay, nghề hầm than vẫn giữ nguyên như cách làm của ông cha trước đây. Vì thế, chúng ta cần thay đổi công nghệ chế biến, phương cách kinh doanh nhằm giúp sản phẩm không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Khó khăn duy nhất của các HTX hầm than đước tại Tân Ân Tây hiện nay là xây dựng một hệ thống quản lý chuẩn mực. Thời gian tới, chúng tôi sẽ cố gắng hỗ trợ, định hướng cho bà con xây dựng và phát triển theo xu hướng hiện đại. Có như vậy bà con mới có thể hưởng hết các ưu đãi để phát triển lâu dài".

Khánh Phương

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực

Tôm, cua Cà Mau là 2 ngành hàng chủ lực nâng cao đời sống của đại bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung. Tuy nhiên, những năm gần đây, 2 mặt hàng này đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự thay đổi nhanh, toàn diện để tạo đột phá và phát triển bền vững.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài cuối: Xứng đáng với vai trò, trọng trách

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HÐND 3 cấp tại Cà Mau đã trở thành quyết tâm, xu thế để đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xứng đáng với vai trò, trọng trách được cử tri tin tưởng trao gởi. HÐND các cấp của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đang ra sức phụng sự, phấn đấu, cống hiến vì mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 3: Tiếp xúc cử tri “đúng người, đúng việc, đúng vai”

Ông Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh Cà Mau, từng rất trăn trở: “Tiếp xúc cử tri mà cán bộ nhiều hơn dân thì chưa đúng người, đúng việc, đúng vai. Tình trạng này phải chấn chỉnh ngay, phải để tiếp xúc cử tri là nơi thể hiện quyền làm chủ thật sự, thực chất của Nhân dân; để bà con cử tri đóng góp ý kiến, đề đạt tâm tư, nguyện vọng và hiến kế góp phần vào sự ổn định, phát triển chung của địa phương”.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 2: Giám sát có trọng tâm, trọng điểm

Giám sát là hoạt động quan trọng của HÐND các cấp, góp phần xác định vị thế, năng lực hoạt động của đại biểu dân cử, cơ quan dân cử, tạo dựng niềm tin và sự tín nhiệm đối với cử tri. Giám sát có trọng tâm, trọng điểm; đa dạng hình thức giám sát, được đo đếm bằng kết quả thực tế, sự đánh giá của cử tri chính là nỗ lực, mục tiêu mà các cấp HÐND tỉnh Cà Mau đang dồn sức thực hiện.

Hành trình của khát vọng và hành động

HÐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân; thay mặt Nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương bằng việc ban hành các nghị quyết tại các kỳ họp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định pháp luật.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài 2: Linh hoạt với những mô hình hiệu quả

Giai đoạn 2020-2025, Cà Mau có nhiều cách làm chủ động, linh hoạt trong thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi, chuyển đổi nghề hiệu quả, hàng loạt kế hoạch đào tạo lao động tại địa phương đã giúp người dân vượt khó vươn lên, mang tính thực tiễn cao.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài cuối: Nhìn từ thực tế

Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, đến năm 2022 Trung ương mới bắt đầu phân bổ kế hoạch vốn và ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, các hướng dẫn từ Trung ương chưa đầy đủ, kịp thời nhưng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HÐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành cấp tỉnh, cùng với sự nỗ lực của địa phương và người dân, các hoạt động thuộc chương trình đã và đang triển khai thực hiện cơ bản đạt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

“Thắng giặc nghèo” không khó

Với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, nhất là sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của người dân, các chính sách giảm nghèo được triển khai thực hiện đồng bộ trên địa bàn tỉnh, mang lại kết quả tích cực. Nhiều hộ nghèo, cận nghèo sau khi thoát nghèo có cuộc sống ổn định, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng lên.