Thứ hai, 8-9-25 11:21:00
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nghề hầm than đen mặt, sáng lòng

Báo Cà Mau (CMO) Ở Cà Mau có nghề hầm than đước đã tồn tại ngót trăm năm. Qua nhiều biến cố lịch sử, nghề này cũng thăng trầm theo thời gian. Hiện nay, nhu cầu về than đun nấu và than dùng trong công nghiệp rất lớn nên cần có hướng mở để nghề chế biến than phát triển bền vững.

“Không nhớ rõ những lò than ấy có từ bao lâu rồi, chỉ nghe cha tôi kể lại, từ những năm 1920, khi vừa tới đây sinh sống đã có những lò hầm than đước tại xứ Chợ Thủ (nay là xã Tam Giang Tây, huyện Ngọc Hiển). Nhưng đến mãi năm 1954, nghề hầm than đước này mới rộ lên nhiều, trải dài từ xã Tân Duyệt cho đến xã Tam Giang Tây (tính theo vị trí hiện nay). Từ năm 1955, than đước Cà Mau đã được bán khắp Nam Kỳ lục tỉnh”, bà Tư Phiến (Dư Thị Phiến), người từng có thời gian dài gắn bó với nghề hầm than đước tại Chợ Thủ, nhớ lại.

Sau khi phân loại, than sẽ được cho vào bao, cân và chuyển đi tiêu thụ.

Một thời hoàng kim

Bà Tư Phiến, một người lớn lên từ thủ phủ của nghề hầm than đước Cà Mau, nay đã 79 tuổi, cho biết, nghề này đã gắn liền với ký ức thuở thanh xuân của bà. Bà vẫn nhớ như in những ngày tháng huy hoàng của nghề khi ấy.

Vào những năm 50 của thế kỷ trước, khi những cánh rừng đước còn bạt ngàn, đước dùng để hầm than chỉ lấy phần thân, không dùng phần gốc như bây giờ. Các lò hầm than lớn nhỏ trải dài, nhưng tập trung nhiều nhất tại khu Chợ Thủ, có đến 200 lò.

Lò than lớn khi đó có thể cho ra những mẻ than hơn 20 tấn, tương đương 40-45 m3 gỗ. Được dùng nhiều cũng có nguyên do của nó, bởi so với những loại than gỗ lúc bấy giờ thì than đước cháy lâu hơn, nhiệt cao hơn nên người dân chuộng dùng.

Gia đình bà Tư Phiến ngày xưa cũng có 2 lò hầm than lớn, do anh bà làm chủ. Nguồn kinh tế chính của gia đình lúc ấy nhờ vào những lò than. Nhu cầu buôn bán than tăng cao, người người, nhà nhà đều xây lò hầm than để bán. Những lò than dọc theo triền sông của Chợ Thủ mọc lên như nấm, lúc nào cũng nghi ngút khói.

Bà Tư Phiến hồi tưởng: “Thấy cái lò lớn mấy chục mét khối vậy chứ không có miếng xi-măng, cốt thép nào như bây giờ. Lò được xây chỉ từ gạch thẻ và bùn dưới sông mà to chừng ấy. Cái nóc lò hình bầu dục, không cần một khung giá đỡ mà chỉ nhắm chừng xây dần lên như vậy”.

Chủ những lò than là người dân tại địa phương, còn “tay rìu” là người dân tứ xứ. Thời đó dân cư thưa thớt, người đốn củi phải vào sâu trong rừng để chọn những cây đước lớn, vì than làm từ những cây lớn có giá hơn.

Dù nguy hiểm, cực khổ nhưng các “tay rìu” bấy giờ nhiều vô số kể, bởi lẽ không chỉ cung ứng củi đước tại Cà Mau, mà củi còn được chở đến tận xứ Sóc Trăng, Hậu Giang nên nghề này nuôi đến hàng ngàn dân nghèo.

Rồi đến đầu năm 1960, quân dân ta phát động phong trào Đồng khởi lật đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giặc càn quét lực lượng của ta ngày đêm, những lò than bị bom đạn phá sập, rừng đước chết trụi bởi chất độc dioxin, người dân phải bỏ nhà cửa, chuyển vào rừng để tránh đạn. Những lò than nguội lạnh kể từ đó.

Hầm than tuy vất vả nhưng nhiều người vẫn quyết tâm theo nghề.

Thời của than xuất khẩu 

Khi hoà bình thống nhất, người dân trở lại quê hương. Chính quyền cách mạng tập trung tái thiết nên việc quản lý khai thác rừng cũng nghiêm ngặt hơn, người dân thiếu nguồn cung củi, nên đa phần bỏ sang làm nghề khác. Những lò than lớn không còn, chỉ còn những lò hầm than nhỏ dùng cho gia đình.

Đến những năm 2000, chỉ còn lại một số ít người làm nghề hầm than, do việc sản xuất than đước gây không ít khó khăn trong công tác quản lý tài nguyên. Đa phần những hộ làm than tại địa phương là những hộ nghèo, nguồn kinh tế chính của gia đình phụ thuộc vào những mẻ than nhỏ.

Để đưa nghề này vào quy củ, năm 2006, chính quyền địa phương đã tìm hướng mở cho người dân làm nghề này bằng cách tập trung họ lại thành lập những hợp tác xã (HTX) hầm than đước. Việc thành lập các HTX góp phần giúp việc quản lý khai thác rừng thuận lợi hơn và giúp cái nghề ngót gần trăm năm tuổi của Cà Mau được lưu giữ.

Điển hình như HTX hầm than đước Tân Phát, xã Tân Ân Tây, huyện Ngọc Hiển với 12 thành viên cùng góp vốn. Hơn 10 năm hoạt động, quy mô ngày càng mở rộng, nay đã có 21 lò với sản lượng bình quân mỗi tháng gần 100 tấn than đước, bán đi khắp cả nước.

Cô Lê Thị Bích, thành viên HTX, cho biết: “Than ở đây ra lò có chất lượng cao nên nhiều nơi rất chuộng. Hiện tại sản phẩm của HTX không chỉ bán trong nước mà còn xuất khẩu”. Cô Lê Thị Bích cho biết, năm vừa rồi HTX Tân Phát đã xuất khẩu qua Ả Rập 50 tấn than ngọn (loại than có đường kính nhỏ, thường là ở phần ngọn của cây đước).

Cũng tại xã Tân Ân Tây, HTX hầm than đước Đồng Khởi vừa ra đời hơn 1 năm nay, có 9 lò hầm than với trữ lượng 6-8 tấn thành phẩm mỗi lò. Các lò được đặt tại mỗi hộ thành viên chứ không tập trung như HTX hầm than đước Tân Phát, nhân công chủ yếu là người trong gia đình phụ trách. Anh Nguyễn Thanh Tùng, Giám đốc HTX hầm than đước Đồng Khởi, cho biết: “Quy mô của những lò than tại HTX nhỏ, ít tốn chi phí thuê mướn nhân công nên thu nhập của chủ các lò than khá ổn. Bình quân mỗi lò trừ đi các chi phí ban đầu, thu nhập trên 10 triệu đồng/tháng”.

Tưởng chừng như đã lụi tàn, nhưng một lần nữa nghề hầm than lại vươn mình sống dậy. Hiện nay, giá than đang dao động từ 10.000-11.000 đồng/kg bán ra từ lò. Với mức giá này, tuy lời lãi không cao nhưng cũng giúp người dân làm nghề hầm than có cuộc sống ổn định hơn.

Rồi đây nghề hầm than đước Cà Mau có phát triển hơn thời hoàng kim những năm 1955-1960? Dù sao thì việc sản xuất than đước cần sự quan tâm nhiều hơn nữa để nó phát triển bền vững, để cái nghề trăm năm của xứ Mũi Cà Mau vẫn trường tồn./.

Ông Đỗ Văn Sơ, Chủ tịch Liên minh các HTX tỉnh Cà Mau, cho biết: “Hơn 100 năm hình thành và duy trì, đến nay, nghề hầm than vẫn giữ nguyên như cách làm của ông cha trước đây. Vì thế, chúng ta cần thay đổi công nghệ chế biến, phương cách kinh doanh nhằm giúp sản phẩm không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Khó khăn duy nhất của các HTX hầm than đước tại Tân Ân Tây hiện nay là xây dựng một hệ thống quản lý chuẩn mực. Thời gian tới, chúng tôi sẽ cố gắng hỗ trợ, định hướng cho bà con xây dựng và phát triển theo xu hướng hiện đại. Có như vậy bà con mới có thể hưởng hết các ưu đãi để phát triển lâu dài".

Khánh Phương

Xẻo Đước anh hùng

Những người dân cố cựu ấp Xẻo Đước, trong đó có những người trực tiếp tham gia công tác tại các cơ quan của Tỉnh uỷ Cà Mau khi nhắc nhớ Khu Căn cứ Tỉnh uỷ Xẻo Đước (ấp Xẻo Đước, xã Phú Mỹ) là giọng nói sôi nổi, đôi mắt sáng rực, lòng trào dâng sự tự hào khôn tả.

Mùa vú sữa trên miền quê mới

Tháng 8, khi từng cơn gió từ biển Tây lướt qua rặng đước, rừng tràm bạt ngàn xanh thẫm, cũng là lúc lòng người dân Cà Mau lại trào dâng xúc động, thành kính nhớ về Bác Hồ. Hơn 55 năm kể từ ngày Người để lại bản Di chúc thiêng liêng, mỗi câu chữ vẫn còn vẹn nguyên giá trị, soi sáng hành trình cách mạng, nâng đỡ ý chí và tinh thần Nhân dân trên từng nẻo quê hương cực Nam của Tổ quốc.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài cuối: Hành động để đổi mới, vươn xa 

Nghị quyết 68 đã xác định những mục tiêu chiến lược, nhưng mục tiêu ấy không thể biến thành hiện thực nếu khâu tổ chức thực hiện thiếu sự tập trung, quyết liệt. Để nghị quyết thực sự đi vào đời sống xã hội một cách thực chất, trở thành nền tảng, động lực và khơi dậy khát vọng, thành tựu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) trong kỷ nguyên vươn mình, cần lộ trình hành động rõ ràng và quyết tâm cao độ. 

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 3: Cơ hội vàng để kinh tế tư nhân cất cánh

Những nội dung mang tính đột phá của Nghị quyết 68 được kỳ vọng sẽ tạo cú huých lớn cho kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển mạnh mẽ. Sự đồng hành, hỗ trợ và kiến tạo của Nhà nước sẽ là "chất xúc tác" để khu vực KTTN phát huy tối đa tiềm năng, bứt phá, đóng góp to lớn hơn vào sự thịnh vượng và phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 2: "Đêm trước" Nghị quyết 68

Trước khi Nghị quyết 68 ra đời, trên địa bàn tỉnh Cà Mau, hộ kinh doanh cá thể (KDCT), doanh nghiệp (DN) nhỏ/siêu nhỏ cùng lúc đứng trước 2 vấn đề tưởng chừng mâu thuẫn với nhau, đó là "chưa thể lớn" và "chưa chịu lớn", thế nhưng chúng lại liên quan chặt chẽ nhau, phản ánh thực tại bức tranh cộng đồng DN nhỏ/siêu nhỏ và các hộ KDCT của tỉnh.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng"

Trong giai đoạn “sắp xếp lại giang sơn”, Nghị quyết 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 (Nghị quyết 68) về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) được Bộ Chính trị ban hành. Với tinh thần xoá bỏ định kiến, tạo điều kiện đột phá, Nghị quyết 68 là sự khẳng định mạnh mẽ của Đảng về vai trò then chốt, động lực quan trọng hàng đầu của khu vực KTTN trong tiến trình phát triển đất nước. Ví như câu chuyện về Thánh Gióng trong truyền thuyết xưa, Nghị quyết 68 đã cung cấp đầy đủ điều kiện chín muồi để KTTN đủ sức chuyển hoá thành những thành tựu phát triển rực rỡ, kỳ diệu của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình.

Yêu Tổ quốc từ phía Trường sa

Trong những ngày cả nước hướng về kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhìn trên bản đồ phía biển Đông - nơi 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa máu thịt của Việt Nam sừng sững hiên ngang trước muôn trùng sóng gió và kẻ thù, lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trong mỗi người sẽ cuồn cuộn dâng trào.

Hơn 30.000 đóa hoa bất tử!

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cứu nước, với lòng yêu quê hương và căm thù giặc sâu sắc, lớp lớp người con ưu tú của Cà Mau đã tham gia cách mạng, hăng hái chiến đấu, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc.

Phát huy sức trẻ sau tinh gọn bộ máy - Bài cuối: Tâm thế vững vàng, sẵn sàng thích ứng

Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, tổ chức Đoàn - Hội ở Cà Mau đối mặt với nhiều thách thức như: giảm nhân sự, tăng áp lực công việc; khan hiếm nguồn cán bộ kế cận; phong trào thanh niên một số nơi rơi vào trầm lắng... Nhận diện những thách thức này, cán bộ Đoàn - Hội "hiến kế" nhiều giải pháp đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn của địa phương để nâng cao năng lực đội ngũ và phát triển phong trào.

Tôi luyện bản lĩnh thời kỳ chuyển mình

Thời kỳ mới, công tác huấn luyện tân binh trong lực lượng vũ trang, đặc biệt là cảnh sát cơ động và phòng cháy, chữa cháy, được chú trọng đổi mới toàn diện, sát thực tế, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao.