Nghệ nhân Dân gian, theo cách gọi chính thức của Tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hoá của Liên Hiệp quốc (UNESCO), là “Living Human Treasures” (nghĩa là “Báu vật nhân văn sống”). Ðây là những con người thật, với khả năng, năng lực thật sự đã tham gia sáng tạo, thực hành, giữ gìn và lưu truyền những giá trị văn hoá dân tộc.
Nghệ nhân Dân gian, theo cách gọi chính thức của Tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hoá của Liên Hiệp quốc (UNESCO), là “Living Human Treasures” (nghĩa là “Báu vật nhân văn sống”). Ðây là những con người thật, với khả năng, năng lực thật sự đã tham gia sáng tạo, thực hành, giữ gìn và lưu truyền những giá trị văn hoá dân tộc.
Ở Việt Nam, vai trò của các Nghệ nhân Dân gian còn đặc biệt và đáng quý hơn, bởi vì cả nước có 54 dân tộc anh em với 54 sắc thái văn hoá khác nhau. Trong đó, dân tộc Kinh chiếm đa số, còn lại 53 dân tộc thiểu số có nền văn hoá mang đậm tính văn hoá dân gian, rất nhiều những giá trị văn hoá, nhất là văn hoá phi vật thể, chỉ được lưu giữ trong trí nhớ và phổ biến bằng truyền miệng, truyền dạy theo phương pháp dân gian.
Từ năm 2003 đến 2007, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam đã tiến hành phong tặng và truy tặng cho hơn 100 Nghệ nhân Dân gian trong cả nước nhằm ghi nhận, tôn vinh những người có công lưu giữ, thực hành và truyền dạy vốn di sản văn hoá văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam. Việc làm này đã được các cấp chính quyền địa phương ủng hộ, đem lại sự động viên, khích lệ không nhỏ đối với các nghệ nhân và thế hệ trẻ, được các cơ quan thông tấn báo chí hoan nghênh.
Từ kết quả của hoạt động này, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, cuốn sách “Nghệ nhân Dân gian” đã được biên tập và xuất bản để giới thiệu những Nghệ nhân Dân gian trong cả nước được phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân Dân gian Việt Nam” từ năm 2003 đến 2007. Cuốn sách dày 207 trang, khổ 15 x 23 cm, do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 2007.
Cuốn sách giới thiệu ngắn gọn về tiểu sử (có hình ảnh minh hoạ) và thành tích hoạt động của 86 nghệ nhân đã và đang tham gia hoạt động trong các lĩnh vực tiêu biểu: lĩnh vực Diễn xướng dân gian và thư pháp (Ca Trù, Hát Chèo, Hát Chèo Tàu, Hát Then, Hát Xoan, Hát Ghẹo, Hò Cửa đình và Múa hát Bài bông, Hát Dò, Hát Dặm Quyển Sơn, Hát Sắc bùa, Ðờn ca tài tử, Hát Xẩm, Hát kể Sử thi và ca hát dân gian, Sân khấu Rô-Băm, Nói dóc, Nhạc cụ dân gian, Thư pháp - Hội họa); lĩnh vực Nghề thủ công truyền thống (Làm hoa lụa, Khảm trai - Ðiêu khắc - Tạc tượng - Ðúc đồng, Ðan mây tre, Nghề bông, Nghề thêu - Dệt thao - Dệt lụa - Thổ cẩm); các thú chơi dân gian và ẩm thực (Nặn Tò he, Thả diều, Ẩm thực, Trưng bày hoa quả).
Trong đó, tỉnh Cà Mau có 1 nghệ nhân được vinh danh là “Nghệ nhân Nói dóc” thuộc lĩnh vực Diễn xướng dân gian. Ðó là Nghệ nhân Nguyễn Long Phi (thường gọi là bác Ba Phi), sinh năm 1884, tại ấp Rạch Mũi, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, dân tộc Kinh.
Nội dung giới thiệu thành tích hoạt động ở trang 136 và 137: “Năm 17 tuổi, Nghệ nhân Nguyễn Long Phi bị thực dân Pháp bắt làm phu, sau đó đưa sang đất Pháp làm lính lê dương. Nghệ nhân đã sống 3 năm trên đất Pháp, sau đó trở về Việt Nam. Tại quê nhà, lúc rảnh rỗi nghệ nhân thường kể chuyện vui về đất nước, con người ở vùng này cho mọi người cùng nghe, cùng vui. Lúc đầu nghệ nhân chỉ kể cho con cháu trong gia đình, nhưng tiếng lành đồn xa, cả làng, cả huyện, cả vùng đều biết “chuyện kể của bác Ba Phi”. Bác “nói dóc” - nói không thật, nói quá - nhưng rất có lý, rất vui, ai cũng muốn nghe. Những mẩu chuyện của nghệ nhân kể hầu hết tập trung vào đề tài ca ngợi sự giàu có của quê hương đất nước, sự dũng cảm của con người đi khai hoang, mở đất, lòng hiếu khách, thuỷ chung…”.
86 nghệ nhân có 86 cuộc đời, số phận khác nhau, nhưng có một điểm giống nhau, họ đều là những “Báu vật nhân văn sống” như cách gọi của UNESCO, họ đã được ghi nhận về thành tích sáng tạo và giữ gìn các giá trị văn hoá, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.
Phương Thuỳ