Tôi im lặng nghĩ xem ai đã ra nhà tôi. Vì con trai tôi không mấy khi về quê, nó biết rất ít họ hàng bên nội. Tôi đoán chắc có ông chú, ông cậu nào đó ra tìm tôi. Tôi dặn con, con nói với cụ bố về ngay. Con nhớ đón rước cẩn thận nhé, mời nước chu đáo, chỉ chỗ công trình phụ nữa đấy. Vâng ạ! Con trai trôi hăng hái đáp lời.
Máy điện thoại vang nhạc chờ, tôi bấm nốt nối mạng.
Bố à? Con trai tôi gọi. Gì thế con? Ngưng một giây, giọng con trai tôi trở nên trang nghiêm, có cụ già ra tìm bố, cụ bảo cụ từ trong quê ra, cụ là bạn của ông nội.
Minh hoạ: Hoàng Vũ |
Tôi im lặng nghĩ xem ai đã ra nhà tôi. Vì con trai tôi không mấy khi về quê, nó biết rất ít họ hàng bên nội. Tôi đoán chắc có ông chú, ông cậu nào đó ra tìm tôi. Tôi dặn con, con nói với cụ bố về ngay. Con nhớ đón rước cẩn thận nhé, mời nước chu đáo, chỉ chỗ công trình phụ nữa đấy. Vâng ạ! Con trai trôi hăng hái đáp lời.
Tôi phóng xe máy về, vừa dựng xe ở góc sân, tôi vội vã vào nhà. Quả là một ông cụ. Thấy tôi về cụ đứng dậy. Tôi chớp mắt cho đỡ loá rồi la lớn:
- Trời ơi! Chú Thuỵ.
- Anh còn nhớ chú sao? Thế là quý lắm rồi, tưởng ra thành phố quên mấy ông nhà quê rồi. Dễ hơn 10 năm rồi đấy nhỉ, nay chú mới gặp lại anh.
- Quên thì không quên nhưng trông chú cũng già nhiều. Ngày xưa phong độ thế. Nghe kể lại hồi trẻ mấy bà cùng xóm ghen nhau vì chú.
- Cái thằng!
Ông mắng và nở nụ cười già nua ánh lên một chút hể hả.
- Thế chú ra có việc gì mà bọc lớn bọc nhỏ thế này?
- Có gì đâu, toàn là đồ nhà quê cả. Gà nhà nuôi, chuối, ổi vườn nhà trồng cả. Chú ra thắp hương cho bác Ðăng, ông nội thằng nhỏ đấy.
Tôi lặng đi và ngạc nhiên nữa. Ông Ðăng là bố tôi, hy sinh ở miền Nam hơn 40 năm rồi, nay vẫn chưa tìm thấy hài cốt. Mà hôm nay có phải ngày giỗ hay ngày lễ gì đâu mà ông Thuỵ ra cúng bố tôi.
Thấy bố con tôi ngơ ngác và bất ngờ, ông nói:
- Có gì đâu, chiều hôm qua chú nhận Huy hiệu 55 năm tuổi Ðảng, mà bố cháu là người giới thiệu chú vào Ðảng. Chú ra thắp hương để bày tỏ lòng biết ơn với bố cháu, với ông nội thằng nhỏ này. Còn một ông giới thiệu thứ hai nữa nhưng con cháu chuyển đi xa rồi. Chú làm thế được chưa. Sao hai bố con cứ đứng như phỗng thế?
Ông cười khà khà rồi mở cái bao tải, lôi ra đủ thứ quà quê, đặc biệt có một con gà trống lông đỏ óng, chân vàng như nhuộm, cái mào vừa nhú đỏ tươi. Ông Thuỵ sắp các thứ ra đĩa. Một nải chuối, một đĩa ổi quả to bằng nắm tay, mấy chùm hoa mào gà, một loại hoa dễ mọc ở quê. Ông bảo thằng con tôi đi mua cho ông một cơi trầu.
Con tôi chạy vèo đi, một lát sau về đặt lên đĩa một lá trầu, một quả cau. Ông khen thằng nhỏ chọn được quả cau đẹp, lá trầu vàng, lành lặn.
Ông cẩn trọng lấy trong túi áo ra một cái hộp nhỏ, bọc trong một túi giấy bóng, lấy cái huy hiệu ra, huy hiệu là một lá cờ búa liềm, bên cạnh là con số 55. Chắc đó là con số 55 năm tuổi Ðảng của ông Thuỵ. Ông đặt Huy hiệu 55 năm tuổi Ðảng vào cái đĩa có lá trầu và quả cau rồi kính cẩn đặt lên bàn thờ bố tôi. Ðắn đo một lát, ông lại nhấc huy hiệu ra, làm dấu bảo tôi gắn nó trên ngực áo cho ông. Ông thắp 3 nén hương, lầm rầm khấn. Tôi không nghe rõ nhưng tôi đoán ông xưng họ tên của ông trước bàn thờ bố tôi, nói lý do đến thắp hương và cầu mong linh hồn bố tôi phù hộ cho ông như bao lời cầu nguyện trong các lần thắp hương khấn vái được hướng dẫn trong các bài khấn nôm. Lần khấn vái này lạ nhất đối với tôi, nó như một lần báo công của người vừa nhận Huy hiệu 55 năm tuổi Ðảng dành cho người đã khuất.
Tôi xúc động thực sự. Tôi thương ông Thuỵ. Thương bố tôi. Tôi bỗng cảm thấy hình như chưa bao giờ tôi lại thương bố tôi như chính lúc này, khi tôi đứng bên cạnh ông Thuỵ. Ðã có lúc tôi nghĩ bố tôi chẳng để lại cho chúng tôi cái gì, nhưng đứng bên cạnh một đồng chí của bố tôi, tôi bỗng thấy mình nhỏ bé và cảm thấy những giá trị bố tôi để lại không có đơn vị tính như cách đo đất đai và đếm tiền tệ mà tôi hay so sánh.
Bố con tôi mời ông ở lại ăn cơm. Vợ tôi đi công tác xa mấy ngày, nhà có hai bố con nên bữa cơm cũng đơn giản. Ông dặn, con gà ông đem cho nên nhốt một ngày một đêm trên đất nhà tôi cho nó có hơi đất rồi hãy thịt. Con trai tôi có vẻ hợp với ông, nó hỏi ông đủ thứ. Ông kể cho nó nghe ngày ông vào Ðảng, ông và ông nội nó về nhà dỡ mấy gốc sắn, luộc lên, giã bánh dày, chấm muối vừng ăn rất ngon. Ông còn kể, đêm ấy các ông hát râm ran cả góc sân. Nó hỏi ông hát bài gì. Ông Thuỵ nói, ông hát nhiều bài lắm, trong đó nhớ có cả bài hát "Ca Chiu Sa" của Liên Xô. Bài hát ấy có một câu rất hay: "Ngày này năm xưa chàng ra đi nơi miền biên thuỳ. Vì quê hương dù mấy khó khăn không lùi". Câu cuối cùng là: "Biết không chàng ơi! Rằng Cat Tơ Rin đang chờ...".
Ông mơ màng sau chén rượu và mơ màng trong câu hát. Ông kéo con tôi vào lòng, nói một câu bất ngờ rằng, Cat Tơ Rin chính là bà nội cháu đấy. Ông kể bố con tôi nghe, trên đường hành quân, ông gặp ông nội cháu trong một trận đánh máy bay ở Quảng Bình. Ðêm ấy, ông nội cháu lấy con dao nhọn khắc tên ông Phạm Trần Duy, người cùng làng, cùng đơn vị hy sinh trong trận đánh ban ngày. Sau này, theo dòng chữ ấy, người ta đưa hài cốt ông Duy về địa phương, còn chính ông nội cháu giờ vẫn chưa biết nằm ở nơi nào.
Ông nói với con trai tôi như với một người lớn, trên huy hiệu ông đeo có lá cờ búa liềm, cờ của Ðảng, cờ của Liên Xô ngày xưa đấy. Bây giờ thì bên đó họ đánh rơi mất lá cờ búa liềm rồi. Ðảng ta còn giữ được lá cờ ấy là quý lắm.
Ông chỉ vào tấm huy hiệu trên ngực, nói với con tôi:
- Cháu có biết không, dưới lá cờ búa liềm này máu đổ nhiều lắm, đau đớn nhiều lắm, đói khổ nhiều lắm.
Con tôi nói:
- Cháu có học lịch sử, cháu hiểu, ông ạ!
Ông Thuỵ lắc đầu:
- Cháu phải hiểu cái đau khi sắt thép cắm vào da thịt ông nội, cái đau khi bà nội và bố cháu nhận tin ông nội hy sinh.
Con tôi ớ ra. Nó ôm chặt ông Thuỵ:
- Ông ơi! Cháu thương ông như thương ông nội cháu.
Ông nhìn sang tôi, cười khà khà, chú đi chuyến này lãi thêm một đứa cháu. Con tôi hứa có dịp sẽ về thăm ông mấy ngày. Hình như nó đang tập viết lách cái gì đấy.
- Thôi, chú về.
Ông nói với tôi cũng đột ngột như lúc ông đến. Ông bảo tôi châm nén hương để ông thắp trước khi đi. Tôi nhìn ông đứng im phắc, Huy hiệu Ðảng trên ngực và từ con người ông toát ra sự trung thực đến từng chi tiết. Hình như cũng như bố tôi, con người ông sinh ra là để làm việc nghĩa, thấm đẫm triết lý "mình vì mọi người” của một thời xa xưa nào đó.
Ông Thuỵ đi rồi mà trước mắt tôi cái ảo giác về ông với chiếc Huy hiệu 55 năm tuổi Ðảng đỏ tươi bên gương mặt phong trần đầy tự tin cứ lẩn quất trong ngôi nhà và trước bàn thờ nhà tôi. Tôi nhìn lên bàn thờ. Làn khói hương bay lên như sắc màu của một điều gì thiêng liêng lắm mà tôi không thể diễn tả bằng lời./.
Truyện ngắn của Lê Thế Thành