ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 31-5-25 22:53:36
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ngôi trường Nhà Máy

Báo Cà Mau Vừa rời khỏi lớp Giáo khoa của Nha Giáo dục Nam Bộ đào tạo giáo viên cấp tốc 3 tháng ở vàm Rạch Ráng (do Tiến sĩ Hoàng Xuân Nhị, Giám đốc Nha Giáo dục Nam Bộ làm Hiệu trưởng), tôi được chú Nguyễn Tạo, Trưởng ty Giáo dục Bạc Liêu, giao nhận nhiệm vụ Hiệu trưởng Trường Tiểu học ấp Nhà Máy, xã Khánh Bình Tây (gồm lớp Nhì A, lớp Nhì B, lớp Ba, lớp Tư, có trên 150 học sinh hết thảy). Hôm đó là ngày lịch sử vẻ vang của đất nước.

Học sinh Trường Nhà Máy xã Khánh Hưng rèn luyện trong thời chiến. Ảnh tư liệu

Học sinh Trường Nhà Máy xã Khánh Hưng rèn luyện trong thời chiến. Ảnh tư liệu

Tôi bảo các em nữ nấu, bưng trà qua bàn khách bên lớp Nhì B để chúng tôi kính mời chú.

- Thưa chú, theo sự nhất trí của Huyện uỷ Trần Văn Thời và Xã uỷ Khánh Bình Tây cùng chú Chín Thép, chú Tư Lý, chi bộ địa bàn này, trường đã cất bằng cây tràm, lá dừa nước, cau dừa, bảng đen và bàn học. Cổng chào, băng vải xanh đỏ và Quốc kỳ sao vàng phấp phới bay trước sân rộng. Ngôi trường toạ lạc trên sân dân quân, bên cạnh mương nước nhiều bông sen, bông súng xanh sáng, tiếp nối với rừng bông nhãn lồng phía sau trường.

Chú Nguyễn Tạo vừa để tách trà xuống dĩa khi tôi vừa khiêm tốn báo cáo xong câu. Chú Tạo lại đứng dậy bắt tay thầy Tư Hoàn (Hồ Thế Thương, nguyên Trưởng ty Giáo dục Bạc Liêu những năm kháng Pháp).

- Chào mừng anh Tư, nào ngờ anh về phụ dạy học ở đây. Anh có mạnh khoẻ không?

Thầy Tư Hoàn nói giọng nhẹ nhàng:

- Nghe thầy Ba Sánh nói Trưởng ty sẽ ghé thăm trường và anh em chúng tôi, nên tôi có lòng chờ.

Rồi kế đến thầy Trần Hoàn, thầy Út Hoàng, thầy Giang, thầy Giàu đều đến.

Các học trò lớn sang kéo thêm bàn ghế và châm nước sôi, bánh in, thèo lèo mấy dĩa, bày biện thành cuộc liên hoan.

- Thưa chú - Thầy giáo Sánh nghiêm túc nói: Thầy Hồ Thế Thương được Sở Giáo dục miền Tây do anh Chín Dũng gởi ra trường này, chúng tôi phân công qua lớp Nhì A phụ giảng về Toán và Tập đọc với thầy Út Hoàng. Còn thầy Trần Hoàn, hoạ sĩ, tốt nghiệp Trường Hội hoạ Mỹ Tho năm 1940, cán bộ đồ bản của Ban Quân sự Nam Bộ, vẽ truyền thần, phông màu dùng cọ lông, bút sắt minh hoạ các loại sinh vật tuyệt vời, anh nhận dạy lớp Ba và các lớp sau đó... Giờ, thưa chú: Thầy Giang, thầy Giàu là bạn của cháu, phụ giúp cháu dạy lớp Nhì B, cháu thường đi hội nghị Xã đoàn nên hai bạn có lúc dạy thế...       

Tiếng vỗ tay giòn giã kéo dài.

Giây lát, Trưởng ty Nguyễn Tạo nhìn khắp mọi người, cất giọng thân thương:

- Mỹ - Diệm không thể để cho ta mở trường văn hoá mang nội dung kháng chiến Nam Bộ này được lâu, nhưng chúng vấp phải nhiều khó khăn, ta còn tranh thủ giữ trường đứng yên bằng sức, trí tuệ ta vài năm nữa. Ta có đổ máu, nhưng ta phải thắng!

Tất cả im lặng nhìn vị Trưởng ty và lắng nghe những lời đúng đắn vừa phát ra. Lần này, cũng là lần truyền đạt cho các thầy và tất cả học sinh, phụ huynh học sinh ở đây biết rõ: Ty Giáo dục Bạc Liêu trước khi giải thể đi tập kết và một số “chuyển mình” ở lại đã thống nhất quyết định phân công thầy Nguyễn Bá Sánh nhiệm vụ Hiệu trưởng Trường Nhà Máy này.

- Ty Giáo dục và Tỉnh uỷ Bạc Liêu hy vọng các đồng chí cùng với Ðảng bộ, Nhân dân, phụ huynh và tất cả học sinh đầy sức mạnh, ý chí của vùng đất căn cứ cách mạng U Minh, xây dựng cho ngôi trường Nhà Máy thành một pháo đài cách mạng. Tiếng vỗ tay lại vang xa hơn. Ban văn nghệ, trống đờn, tampo và các đội văn nghệ đến xin phép trình bày chương trình văn nghệ đón mừng Trưởng ty Nguyễn Tạo.

Mở màn chương trình, một nữ học sinh lớp Nhì A hát bài: “Hồ Chí Minh, chúng con hát mãi tên Người”, Út Nhỏ 15 tuổi, giọng hát cao vút tha thiết, kéo dài khi lời ca bay xa.

Chú Nguyễn Tạo xúc động, lấy khăn quấn cổ lau nước mắt. Bài hát chấm dứt, chú Hai bước lại vuốt tóc cháu gái:

- Cháu hát hay quá, cháu làm cho cả nước hân hoan thức tỉnh vẽ Bác Hồ và Tổ quốc Việt Nam - Cháu là một ca sĩ của trường ta!

Nãy giờ còn một vệ sĩ cắm chèo đậu xuồng ở trước cửa trường chờ chú Nguyễn Tạo xem văn nghệ trường. Anh tên Ðông (trùng tên với người bảo vệ bác Tám Sấn). Anh Ðông vào, nói với chú Tạo: “Cô gái đó hát bài Hồ Chí Minh muôn ánh sao bay rợp thành đô hay thiệt hay hén chú Hai!”. Lấy khăn quấn cổ chậm nước mắt xúc động lần nữa, chú Nguyễn Tạo hồn nhiên nói:

- Thật mà nói, Trường Nhà Máy này từ thầy giáo đến học trò đều đáng khen. Cô gái học trò hát như vậy, đến đây ta mới được nghe, phải không?

Các đội vũ đang múa bài “Mùa hoa nở“ nhạc Liên Xô. Còn bên lớp Nhì B múa bài “Nông tác vũ” nhạc Trung Quốc. Lớp Ba múa bài “Giải phóng quân nhập thành" nhạc Trung Quốc, kế đến là bài "Chiến binh ca vũ khúc” nhạc Trương Bỉnh Tòng.

Chấm dứt chương trình văn nghệ, các học sinh mạnh mẽ mặc quần áo kẻ vạch trắng, nhảy rầm rập bài “Hải quân Liên Xô”. Nhạc tấu lên: "Mí mí mí rê đồ rê mí mí/Mí mí mí rê đồ rê mí mí rê mí rê đô si la sình sìn...”.

“Một đoàn hải quân Liên Xô” mạnh vô cùng, chào tạm biệt khán giả. Chú Nguyễn Tạo vẫy tay chào. Các thầy giáo, phụ huynh học sinh và tất cả học trò lưu luyến khi chia tay chú Nguyễn Tạo, kéo nhau ra đến mé kinh, thân mến nắm tay chú và chúc sức khoẻ chú... Chú chèo khỏi nhà chú Ba Tam Bản, nhà anh Bé rồi mất hút trong rặng lá trâm bầu mùa thu...

*

Ngày khai trường là thứ Hai, ngày 14/8/1955 âm lịch năm Ất Mùi, nhằm ngày 1/8/1955 dương lịch. Ngày chú Nguyễn Tạo đến thăm trường là lịch sử vẻ vang của quê hương, từ ngày 2/9/1955, nhằm ngày 15/8/1955 âm lịch Ất Mùi.

Giáo sư mở lớp sư phạm 3 tháng cuối thời tập kết, các đơn vị bộ đội 307, 410 lưu luyến giã biệt Nhân dân. Ông bà Trà Văn Chỉnh có 2 đứa con trai (tập kết 1) và 3 đứa con gái. Con gái út là cô Chúc học chữ mau nhớ, lại có giọng hát trời cho tuyệt hay. Mai lại gặp các anh bộ đội giỏi âm nhạc dạy cho cô Út hát bài: “Hồ Chí Minh, Cha chúng ta về. Một mùa thu, muôn ánh sao bay rợp thành đô...”. Và cũng nội dung rực rỡ này, bài hát mở rộng ra và vút cao lên đến vô tận, mang vinh quang cho nhạc sĩ và ca sĩ bền lâu...

 

Nguyễn Bá

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.