Xứ tôi ở ven rừng tràm nên cá đồng nhiều lắm. Trước đây cá có quanh năm ngoài tự nhiên, còn bây giờ người ta nuôi trong ao, vuông, hay trong rừng, ruộng lúa…
Xứ tôi ở ven rừng tràm nên cá đồng nhiều lắm. Trước đây cá có quanh năm ngoài tự nhiên, còn bây giờ người ta nuôi trong ao, vuông, hay trong rừng, ruộng lúa…
Khi những trận mưa lớn cuối mùa vừa dứt, tôi về quê tát mấy họng đìa để kịp làm khô trong dịp Tết. Cá lóc, trê, rô, thác lác thường bán tươi, còn lại cá sặt má tôi làm khô để ăn, làm quà biếu và cho con cháu. Xứ tôi gọi cá sặt rằn là cá bổi, phân biệt rõ ràng cá bổi với sặt bướm. Sặt bướm nhỏ con, vảy màu trắng, còn sặt bổi lớn con, vảy có sọc rằn, màu xám. Nhà tôi thích cá sặt bướm vì nó ít mỡ, ăn không ngán. Sặt bướm làm khô lạt rất ngon vì cá nhỏ không cần muối lâu, chỉ nhúng qua nước muối rồi đem phơi nên không bị mặn. Khô sặt nướng, chiên giòn, nấu canh chua đều ngon…
Ngoài ra còn dùng để uống trà, đó là cái lạ và thú vị của người dân quê tôi vì cá không tanh nồng mà thơm ngon, giòn rụm. Khách đến nhà, ba tôi hay kêu: “Mấy đứa nhỏ nướng cho ba dĩa khô sặt đi con!”. Cả nhà hiểu ý ba, nướng lửa than riu riu, trở bề thường xuyên đến khi cá ngả màu vàng nhẹ là vừa. Nhiều chú, bác trong xóm cũng có thói quen như ba tôi nên trong nhà tôi không thể thiếu trà và cá khô sặt.
Chưa đến mùa đìa thì giăng lưới, đặt lọp để có cá sặt, má tôi không bán mà làm mắm, làm khô dùng dần. Món bún nước lèo chỉ có mắm sặt mới làm nên hương vị độc đáo của loại ẩm thực “rặt” chất Nam Bộ.
Nhắc tới khô cá sặt làm tôi nhớ cảnh nhà nghèo ra chợ học, cá khô và mắm là loại thực phẩm chủ lực cho đám học trò năm, bảy đứa cùng ở trọ một căn nhà. Sáng sớm nấu nồi cơm lớn để ăn tới chiều, đi học về đốt nắm lá dừa nhen lửa, bắc chảo lên chiên mấy con khô là xong bữa sáng. Chiên xong củi cháy thành than, bắc vỉ lên nướng khô để dành cho buổi chiều. Rau đồng nấu chín, nêm chút bột ngọt, thả vô vài con mắm sặt thế là có nồi canh đậm đà, thơm phức.
Khô bổi bây giờ không ngon như ngày xưa bởi hầu hết là cá nuôi bằng thức ăn công nghiệp, chỉ có sặt bướm sống trong tự nhiên nên chất lượng không thay đổi. Do nguồn cá đồng ngày càng ít nên khô sặt bướm trở thành quý hiếm.
Gần Tết, thế nào má tôi cũng kiếm một mớ từ mấy chủ tát đìa, mấy đứa nhỏ đi bắt cá hôi, tát mương… gom lại làm khô ăn Tết. Quê tôi có rất nhiều món ăn dân dã nhưng hết sức đậm đà chất đồng nội, những món ngon này thường là “đại sứ” cho tình làng nghĩa xóm, cho những bữa cơm đoàn tụ của gia đình. Nếu chúng được đi xa xứ thì cũng làm “nghĩa vụ” chứ không trở thành hàng hoá bán mua.
Diện mạo làng quê giờ đã ảnh hưởng sắc màu đô thị bởi sự phát triển nhanh về kết cấu hạ tầng, nhưng tôi luôn tìm thấy cái gốc nghĩa tình qua những chuyến về quê. Nghe mùi khô nướng thơm lừng từ giàn bếp củi của má, gương mặt thanh thản của ba và các lão nông khề khà bên dĩa khô nướng với ấm trà buổi sáng nhìn giàn hoa giấy, dâm bụt trước sân khoe sắc đón nắng xuân, tôi chợt nghĩ: hạnh phúc luôn hiện hữu, chỉ cần ta “quay về” sẽ tìm thấy./.
Lê Ngọc