ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 17-4-25 02:58:50
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Nhớ những ân tình trên đất Bắc

Báo Cà Mau Trong rất nhiều câu chuyện của các cô chú đi tập kết 1954, mỗi người một độ tuổi, một vị trí công tác và ở những địa phương khác nhau, nhưng hầu như câu chuyện nào cũng nhắc đến sự cưu mang, nhường cơm sẻ áo của đồng bào miền Bắc.

Cầu Hiền Lương (nhìn từ bờ Bắc), nơi chia cắt hai miền Nam - Bắc sau Hiệp định Giơ-ne-vơ. Ảnh: THANH CHI

Cầu Hiền Lương (nhìn từ bờ Bắc), nơi chia cắt hai miền Nam - Bắc sau Hiệp định Giơ-ne-vơ. Ảnh: THANH CHI

Những chén cháo nghĩa tình

Quá trình gặp gỡ nhân chứng, tìm hiểu tư liệu viết bài tập kết, tôi tiếp cận được những trang hồi ức đầy xúc động của ông Phan Văn Tạng (từ Bảo tàng tỉnh Cà Mau). Ông Phan Văn Tạng quê ở ấp Kiến Vàng, xã Tân Hưng Tây, huyện Phú Tân. Năm 1954, ông là bộ đội (thuộc Ðại đội 680, Tiểu đoàn 412, Phân liên khu miền Tây Nam Bộ) tập kết ra Bắc. Từ năm 1960-1966, ông làm việc tại Bảo tàng Quân đội. Năm 1975, ông chuyển công tác về Cà Mau. Giai đoạn 1980-1990, ông giữ chức vụ Giám đốc Bảo tàng tỉnh Minh Hải (nay là Cà Mau, Bạc Liêu). Ông mất năm 2022.

Trong mấy chục trang hồi ức viết tay, có nhiều đoạn kể về những ân tình trên đất Bắc, xin được trích ra đây: “... Ngày thứ năm đến bến Sầm Sơn, tàu lớn, bãi cạn không cập bến được nên phải đậu cách khoảng 1 km. Tuy xa nhưng chúng tôi vẫn thấy rõ trên bờ không khí náo nhiệt, trống rung cờ mở, tiếng hô khẩu hiệu âm vang, lan toả trên mặt sóng biển. Những chiếc thuyền của ngư dân vun vút lao ra đón chúng tôi. Các đồng chí thuỷ thủ tàu Ba Lan thả thang dây cho chúng tôi xuống thuyền”.

Sau khi đến bến, nghỉ lại lán trại vài ngày, đơn vị bắt đầu hành quân vào thị xã Thanh Hoá. Tình cảm người dân nơi này để lại ấn tượng đẹp trong ông: “Ðảng uỷ và đồng bào đón chúng tôi hết sức nồng nhiệt. Ðồng chí Trưởng thôn dẫn chúng tôi đến từng nhà bàn giao. Bà con vui vẻ tiếp nhận.

Tối hôm ấy, một điều xảy ra hết sức bất ngờ là mãi đến 9-10 giờ đêm mà không thấy bà con ăn cơm. Hỏi ra mới biết, Thanh Hoá năm ấy vỡ đê, mất mùa, dân chúng không có thóc gạo mà phải dùng lá rau khoai lang trộn với trấu giã mịn hấp lên ăn. Thậm chí có người còn ra đường ray xe lửa đào rau má làm bữa, nên có câu: “Dân Thanh Hoá, ăn rau má, phá đường tàu”. Thế mà bộ đội chúng tôi được ăn 27 kg gạo mỗi tháng, bằng 900 gram/ngày. Bữa ăn nào cũng có thịt cá, trong khi đó bọn trẻ từ sáng đến chiều tối không có một hột cơm trong bụng. Nhưng mỗi khi dọn cơm ra sân đình thì không bao giờ thấy bóng bọn trẻ con đến nhìn ngó. Chúng tôi khâm phục sự lãnh đạo của Ðảng bộ và xúc động trước những nghĩa cử của Nhân dân. Nhiều đồng chí cảm động đến rơi nước mắt. Biến tình cảm thành hành động, chúng tôi gom số cơm sau bữa ăn còn, đem về cho đồng bào. Ðược vài lần, chính quyền địa phương phát hiện, phản ánh với đơn vị, chúng tôi bị kiểm thảo. Có khuyết điểm thật nhưng chúng tôi không hề ân hận”.

Một kỷ niệm thật ấm áp tình người mà ông Tạng cũng không thể nào quên: “Vào khoảng tháng 3, trời còn rét, tôi bị sưng phổi. Ðể đảm bảo quân số, quân y đưa tôi gửi nhà chị Tùng ở thôn Ðời Sơn. Chị Tùng có hai con, con trai lớn tên Tùng, cháu gái tên Tình. Chồng chị Tùng qua đời vì nạn đói năm 1945. Nằm được một tuần lễ, ngày nào trước khi ra đồng chị cũng đến hỏi thăm tôi. Một chuyện đầy cảm động nữa là, nhà chị chỉ còn một đấu thóc, chị đem giã lấy gạo trắng nấu cháo cho tôi, còn lại tấm mẳn, cám và trấu đem giọt thật mịn, trộn với lá khoai hấp lên để mẹ con chị ăn.

Con gà mái đẻ được 3 trứng, hết thóc nó không đẻ nữa, 3 trứng gà ấy cũng lần lượt nấu cháo cho tôi. Ban đầu tôi nghĩ thầm, hay là chị Tùng yêu tôi. Nhưng không phải, mà đó là tình dân hết lòng thương yêu bộ đội, nhằm bồi dưỡng cho tôi mau hết bệnh trở về đơn vị, cùng anh em xây dựng lực lượng hùng mạnh giải phóng miền Nam. Nghĩa cử đó làm tôi nhớ mãi”.

Hơi ấm ổ rơm

Trong ngôi nhà xinh xắn, khuôn viên trồng nhiều cây xanh, rau cải, bầu bí, chim, hoa, cá cảnh của vợ chồng Kỹ sư Phạm Hữu Liêm và Lê Thị Liễu, toạ lạc tại ấp Tắc Thủ, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, câu chuyện tập kết được ông bà kể lại với bao dạt dào cảm xúc.

“Không nhắc thì thôi, nhắc là nhớ miền Bắc dữ lắm”, bà Liễu thổ lộ.

Bà Lê Thị Liễu quê tỉnh Quảng Ngãi, năm 1954, bà 10 tuổi, tập kết ra Bắc theo diện học sinh miền Nam. Tại miền Bắc, bà Liễu học cấp 1 đến cấp 3 ở Hải Phòng, học đại học ở Học viện Nông Lâm Hà Nội (sau Học viện tách ra thành các trường đại học: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thuỷ sản).

Ông Phạm Hữu Liêm (sinh năm 1941, quê ở xã Tân Hưng, huyện Cái Nước), cũng là học sinh miền Nam, tập kết ra Bắc năm 1954, học cùng lớp đại học ở Học viện Nông Lâm Hà Nội với bà Liễu.

Vợ chồng Kỹ sư Phạm Hữu Liêm (bìa trái, hàng đứng) và Lê Thị Liễu (thứ hai từ trái sang, hàng ngồi) chụp ảnh lưu niệm cùng bà Nương (bìa trái, hàng ngồi) sinh hoạt chi bộ cùng thời đó và những người con cháu trong gia đình cụ Nước, trong một lần ra thăm miền Bắc. (Ảnh bà Lê Thị Liễu cung cấp)

Vợ chồng Kỹ sư Phạm Hữu Liêm (bìa trái, hàng đứng) và Lê Thị Liễu (thứ hai từ trái sang, hàng ngồi) chụp ảnh lưu niệm cùng bà Nương (bìa trái, hàng ngồi) sinh hoạt chi bộ cùng thời đó và những người con cháu trong gia đình cụ Nước, trong một lần ra thăm miền Bắc. (Ảnh bà Lê Thị Liễu cung cấp)

Năm 1970, hai người xây dựng gia đình với nhau và sinh được 2 người con ở miền Bắc. Năm 1973, ông Liêm xung phong về Nam công tác. Bà Liễu và các con mãi năm 1976 mới về.

Hơn 20 năm sống trên miền Bắc, bà có rất nhiều kỷ niệm, nhất là sự cưu mang của đồng bào.  

“Hồi mới ra Bắc, chúng tôi được các cô bảo mẫu chăm sóc, mỗi cô chăm 40-50 bạn. Lúc đó lạnh quá đâu tắm được, bạn nào cũng chí, rận, rệp rất nhiều. Mỗi tuần các cô nấu nước tắm cho hai lần. Tối đến, mấy cô đi dọc theo giường ngủ thấy rệp là bắt. Rồi mấy cô phải nấu nước trụng áo quần cho rận, rệp chết. Lo tới cỡ lớp 3, mình lớn, biết tự lập được thì mới thôi”, bà Liễu nhớ lại.

Khi ấy, đối tượng học sinh miền Nam nhiều nhất trong độ tuổi 6-7 đến 12-13. Còn nhỏ nhưng phải xa cha mẹ, lại ở môi trường thời tiết khác biệt, nhất là cái lạnh, vì vậy được các cô chăm lo chu đáo, không chỉ giúp các bạn đảm bảo về sức khoẻ mà còn cảm nhận tình thương, hơi ấm gia đình, nguôi ngoai nỗi nhớ nhà. Ðó mãi là những tình cảm đẹp trong lòng bà Liễu và các bạn.

Những năm học đại học, bà cũng có nhiều kỷ niệm gắn bó với người dân: “Khi đó tôi làm lớp phó sinh hoạt, lo đời sống cho lớp. Bấy giờ máy bay B52 bắn phá miền Bắc dữ dội, nhiều lần chúng tôi phải đi sơ tán ở nhà dân (trên địa bàn Ðông Anh, Hà Nội). Tới giờ ăn, tôi đến bếp tập thể cùng chị cấp dưỡng lo phân chia cơm canh ra từng tổ. Phân phát xong, khi mình ra bàn ăn thì thường bị hết phần. Vậy là đành để bụng đói đi về. Gia đình cho ở nhờ thấy về sớm hỏi thăm, biết chuyện, họ cho mình ăn cơm. Nhiều lần như thế. Ở riết họ thương, coi mình như con cái. Có lúc lạnh, chăn mền đâu đủ ấm, nhà có con dâu, chồng đi bộ đội, họ cho mình vô phòng ngủ chung với chị ấy luôn”.

Có một chuyện mà ông bà Kỹ sư Phạm Hữu Liêm - Lê Thị Liễu luôn hàm ơn, nhắc nhớ hoài với bản thân và con cái. Ðó là khi ông bà đã kết hôn, có được người con đầu, bà làm ở trại chăn nuôi của Hợp tác xã Ðạm Thuỷ, huyện Ðông Triều, tỉnh Quảng Ninh, được bố trí một căn nhà nền đất trong trại. Bấy giờ con nhỏ, đi làm không ai trông, cũng không có nhà trẻ. Làm chung trong trại có ông cụ, mọi người gọi là ông cụ Nước, nhà ở ngoài xóm, cách đó khoảng cây số. Thấy tình cảnh bà như vậy, cụ biểu để cụ mang cháu về cho vợ chăm giúp. Vậy là ngày ngày bà gửi cháu cho ông bà cụ Nước.

Ông bà cụ Nước, những người đã cưu mang, chăm sóc các con nhỏ cho vợ chồng Kỹ sư Phạm Hữu Liêm - Lê Thị Liễu, thời ông bà công tác ngoài Bắc. (Ảnh bà Lê Thị Liễu cung cấp)

Ông bà cụ Nước, những người đã cưu mang, chăm sóc các con nhỏ cho vợ chồng Kỹ sư Phạm Hữu Liêm - Lê Thị Liễu, thời ông bà công tác ngoài Bắc. (Ảnh bà Lê Thị Liễu cung cấp)

“Sau này tôi xuống công tác ở nông trường (xã Ðông Mai, huyện Yên Hưng) cách đó 30 cây số, đã sinh thêm cháu thứ hai, chồng thì về Nam, ông bà cụ Nước cũng bắt mang các cháu về để ông bà chăm, không cho gửi nhà trẻ; vì miền Bắc lúc đó rất lạnh, sợ các cháu bị bệnh. Ông bà làm ổ rơm, rồi ủ các cháu trong đó giữ ấm khi mùa đông. Nhờ vậy mà mình yên tâm công tác. Ông bà giữ các cháu tính ra cũng khoảng 4 năm. Ơn nghĩa này vợ chồng tôi luôn ghi nhớ”, bà Liễu xúc động.

Biết ơn những gia đình đã cưu mang, sau này ông bà nhiều lần về thăm, đặc biệt là với gia đình ông cụ Nước. “Lần đầu về thăm còn cụ bà, cụ ông mất. Lần sau về thì chỉ gặp con cháu trong nhà, cụ bà cũng qua đời. Ðợt gần đây nhất, chúng tôi dẫn cả hai con về thăm”, bà Liễu cho biết.

“Lúc đó miền Bắc nghèo lắm, thêm lực lượng tập kết ra, kinh tế phải chia năm xẻ bảy, vậy mà người dân vẫn nhường cơm sẻ áo, đùm bọc, cưu mang. Nói chung về cái tình miền Bắc đối với miền Nam, bây giờ càng lớn tuổi càng nghĩ, thấy thật đậm đà, sâu sắc”, bà Liễu chiêm nghiệm.

 70 năm, đất nước thống nhất vẹn toàn. Thành quả này khắc sâu thêm ý nghĩa của tình đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái - đạo lý ngàn đời của dân tộc, đặc biệt là tầm nhìn chiến lược, sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Ðảng, của Bác Hồ. Tất cả tạo thành sức mạnh Việt Nam để vượt qua bão dông và tiếp tục vươn mình tiến về phía trước./.

 

Trang Thăm

 

Trang sử Cà Mau thời kháng chiến năm 1973

Sau Hiệp định Paris năm 1973, về mặt đấu tranh công khai, Ban Liên hợp quân sự 4 bên khu vực 4 (Quân khu 9), do đồng chí Hoàng Hà làm Trưởng ban, đồng chí Phạm Văn Liêm làm Phó ban, Tổ liên hợp Cà Mau do đồng chí Tống Kỳ Hiệp và đồng chí Trịnh Thành Kế phụ trách đã đấu tranh chống lại sự vi phạm Hiệp định của địch trong khu vực. Ta buộc địch công nhận vùng tự do của ta ở Cà Mau và đã thực hiện việc trao trả tù binh ở Kinh Ba, xã Quách Phẩm, huyện Ngọc Hiển (Tư Kháng), Ðầm Dơi ngày nay.

Về “Đất thép thành đồng”

Thiết thực các hoạt động chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2025), ngày 30/3, đồng chí Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh uỷ, cùng đoàn cán bộ Tỉnh đoàn đã có chuyến hành trình giáo dục truyền thống, về nguồn tại "Ðất thép thành đồng": Củ Chi - TP Hồ Chí Minh.

“Chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú - Dấu xưa một thời

Trong hành trình tìm về quá khứ, có những việc tuy ngoài sách sử, nhưng lại đậm sâu trong ký ức nhiều người. Ðó cũng là câu chuyện về “chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú, nay thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước.

Những ngày tháng Ba của mùa Xuân đại thắng

Nửa thế kỷ đã qua kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước thống nhất, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến của dân tộc chống lại đế quốc sừng sỏ và bè lũ tay sai. Tháng 3/1975 là “đêm trước” của ngưỡng cửa chiến thắng. Cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ; không khí cách mạng dâng cao sục sôi; cùng với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng tất cả ý chí, niềm tin, sức mạnh của Đảng ta, để toàn dân tộc cùng nhau kề vai chung sức, chớp lấy thời cơ, làm nên một chiến thắng vang dội, hào hùng, bất tử.

Thân thương hai tiếng Cà Mau

Cà Mau không chỉ là điểm cuối của đất nước, nơi ai cũng mong một lần được ghi dấu bước chân mình tại cột mốc toạ độ, mà còn là vùng đất để lại trong tim nhiều người những tình cảm khó quên.

Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng - Lịch sử không thể lãng quên

Tôi đồng tình với ông Sáu Sơn (ông Ðỗ Văn Nghiệp, tác giả chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Ðiều tra, sưu tầm chứng tích tội ác Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng” cách đây 20 năm), rằng: “Khép lại quá khứ, không có nghĩa là lãng quên quá khứ. Bài học đúc kết từ quá khứ là bài học bằng xương máu, sẽ có nhiều bổ ích cho hiện tại và tương lai”.

Bến Dựa một lần về

Bến Dựa chỉ là một đoạn sông ngắn, hằng ngày cần mẫn làm người trung chuyển đưa nước lớn về ngã ba Cái Đuốc, ngọn Cái Ngay; tiễn nước ròng ra Cái Nháp, đổ ra ngã ba Tam Giang, xuôi về biển cả. Khu rừng bên bờ Đông Bến Dựa nơi cơ quan Huyện uỷ Tư Kháng (Đầm Dơi ngày nay), làng rừng Huỳnh Ngọc Điệp tồn tại.

Chiều Sài Gòn

Tựa bài viết “Chiều Sài Gòn” nghe như chơi vơi, rất xưa, bởi Sài Gòn - Gia Ðịnh đã có hơn 300 năm tuổi, thì đồng nghĩa cũng có hơn một triệu buổi chiều. Nhưng “Chiều Sài Gòn” tôi viết đây chỉ là chiều 30/4/1975, buổi chiều đầu tiên “Sài Gòn ơi ta đã về đây” như lời bài hát một thời có sức hút mạnh mẽ.

Huyền thoại biệt động thành Cà Mau

Thị xã Cà Mau những năm cuối thập niên 1950, dưới chế độ Mỹ - Diệm, không khí ngột ngạt bởi những cuộc càn quét, bắt bớ. Đám cảnh sát mật vụ, lính bảo an lùng sục khắp nơi, ráo riết truy lùng những người kháng chiến cũ, những người mà chúng nghi là "Việt cộng nằm vùng".

Thăm địa chỉ đỏ

Di tích Hồng Anh Thư Quán (số 43, đường Phạm Văn Ký, Phường 2, TP Cà Mau) là một trong những di tích lịch sử hiếm hoi ghi dấu chặng đường cách mạng của người Cà Mau trước năm 1930. Hồng Anh Thư Quán được công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia ngày 4/8/1992.