ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 6-7-25 02:19:47
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Trong lòng đất Bắc

Báo Cà Mau Một sáng tháng 7/2024, trong căn nhà ở Ðường 30/4, Phường 5, TP Cà Mau, ông Dương Thanh Toàn, là nhân chứng trong chuyến tàu tập kết ra Bắc - tuổi 92 cùng người ghi chép ở tuổi 86, hai mái đầu bạc trắng ngồi bên bàn trà, có cả chai rượu thuốc và hai cái cốc nhỏ. Người kể, người nghe kỷ niệm 70 năm về trước trên đất Bắc. Cuộc sao chép ký ức đã gần ba phần tư thế kỷ không tránh khỏi nhớ nhớ, quên quên. Cái quý nhất là ở không gian, thời gian và cái thật của những diễn biến cuộc đời ông

Ông Dương Thanh Toàn (thứ hai từ phải sang) tặng hiện vật liên quan sự kiện tập kết cho Bảo tàng tỉnh Cà Mau. Người đứng bìa phải là tác giả bài viết. Ảnh: KHẮC TUYỀN

Ông Dương Thanh Toàn vào chuyện:

“... Ngày 12/11/1954, chúng tôi xuống chiếc tàu há mồm của Pháp ở Chắc Băng để ra tàu Liên Xô đang neo đậu ở cửa sông Cần Thơ, bắt đầu một chuyến đi dài không phải là 2 năm theo dấu hẹn bằng 2 ngón tay mà mãi tới 21 năm. Ở tuổi 22, hừng hực sức trẻ, ra đi để chấp hành mệnh lệnh của quân đội, lại vừa đi để biết đó biết đây, khi trở về đã ở tuổi 43, đề huề vợ và đàn con có đủ cả trai, gái. Ngày nào chiếc khăn mỏ quạ còn lạ lẫm, thấy làm sao ấy, nay đã trở thành một phần của đời mình.

Bốn ngày lênh đênh trên biển, một buổi sáng chúng tôi đã nhìn thấy dải xanh rờn đất liền, ai nấy đều nôn nao một tình cảm rất lạ. Vốn là nông dân gắn bó với ruộng đồng, chỉ cái chợ Cà Mau còn không biết, nói chi đến chiếc tàu biển rộng thênh thang. Chúng tôi đinh ninh trong dải xanh rờn ấy có Bác Hồ kính yêu, có tấm lòng của Nhân dân miền Bắc ruột thịt. Ngày 16/11/1954, con tàu đã vào biển Sầm Sơn (Thanh Hoá) và rồi chuyển qua ghe nhỏ vào bờ. Hồi hộp, xúc động khi được hàng ngàn đồng bào với băng, cờ chào đón. Cuộc ra đi của chúng tôi đã nhận được tình cảm ấm áp buổi ban đầu.

Ở Sầm Sơn không lâu, chúng tôi được chuyển về Hà Nội, bắt đầu học cải cách ruộng đất. Là gia đình trung nông có tám chục công ruộng, nhà cột cây, lợp lá, họ cho tôi là thành phần địa chủ bóc lột. Trầy da tróc vảy, quần tới quần lui, tôi khai báo rất thật lòng mà như van xin, cuối cùng tôi được hạ xuống còn thành phần "địa chủ thấp". Nhiều đêm tôi buồn không ngủ được, có lẽ nào mấy năm tham gia kháng chiến lại dừng lại ở đây, nơi đất Bắc xa mù, tôi phải làm gì. Nhưng tôi vẫn hy vọng rồi Ðảng sẽ thấu hiểu cho mình. Chắc cũng vì lẽ đó mà tôi phải mất 14 năm trong quân ngũ mới được đứng vào hàng ngũ của Ðảng.

Cuối năm 1955, tôi được điều về bộ phận quân khí thuộc C130, D548, E354 được đề bạt tiểu đội phó, có nhiệm vụ cùng đơn vị đi nhổ trụ sắt, cuốn dây thép gai ở cứ điểm Phù Lỗ của thực dân Pháp vừa rút khỏi. Nói gian khổ thì quá đáng, nhưng tay chân chúng tôi ai nấy đều bị gai của dây thép cứa vào da thịt rỉ máu. Năm 1956, tôi về quân giới Z63 đóng trong rừng ở Làng Ngòi, Tuyên Quang. Năm 1958, về Công trường 12 để xây dựng Nhà máy quân giới Z1, tại xã Minh Quán, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, được đề bạt làm tổ trưởng sản xuất rồi phó quản đốc phân xưởng cơ điện.

Hai năm hiệp thương thống nhất đất nước không có, Mỹ đã thay chân Pháp dựng chính quyền tay sai Ngô Ðình Diệm, trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, biến miền Nam thành tiền đồn chống cộng ở Ðông Nam Á, thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ, ngày đêm càn quét, bắt bớ, giết hại, giam cầm những người kháng chiến cũ và Nhân dân lương thiện, máu đồng bào miền Nam đã đổ. Chúng còn ban hành đạo luật phát xít 10/59 để hợp thức hoá hành động man rợ của mình. Những đứa con miền Nam mong được trở về chiến đấu trên mảnh đất quê hương.

Năm năm nữa trôi qua, tôi đã bước vào tuổi 27, cái cảnh ngày Bắc đêm Nam thôi thúc tôi tìm chỗ dựa. Hằng ngày, các cô gái ở hợp tác xã xóm Khe Ðá, xã Minh Quán ra đồng rất vui, dù là mùa đông rét mướt hoặc nắng hè rát mặt. Thỉnh thoảng anh em công nhân ở nhà máy quân giới Z1 cũng ra đồng giúp dân. Như có duyên định, hay là nhờ tôi tán mấy câu Kiều: “Người đâu gặp gỡ làm chi/Trăm năm biết có duyên gì hay không?” mà tôi và cô gái Trần Thị Liên, 19 tuổi, hoa khôi ở xóm Khe Ðá bén duyên. Lễ tuyên hôn được tập thể lo hết, dù đơn giản chỉ dĩa bánh kẹo và lời chúc của lãnh đạo, bạn bè và nhà gái”.

Câu chuyện đã có một hơi dài, giọng ông vẫn rổn rảng, tôi căng tai để nghe, căng óc để nhớ và căng tay để ghi. Muốn dừng lại nhờ ông cung cấp những chi tiết đáng nhớ khác, ông bảo, thôi đại khái vậy được rồi, 21 năm xa quê, dài lắm. Hai cốc rượu được nâng lên với mấy cục nem chua làm mồi. Lại cười, lại nói:

“Ðầu năm 1960, tôi cùng một số anh em được cử sang Trung Quốc học chế tạo vũ khí AK. Trước khi lên đường được học tiếng Trung 3 tháng. May mà khi ở nhà tôi có học chữ Nho 3 năm nên các ký tự tiếng Trung tôi tiếp thu rất nhanh. Trên chuyến tàu đêm, trong tôi vui, buồn lẫn lộn. Vui vì được Ðảng tin tưởng cử đi học nghề phục vụ ngành quân giới nước nhà. Buồn vì thêm xa quê hương miền Nam, xa vợ và đứa con còn trong bụng mẹ. Ðến Côn Minh - Vân Nam, với khí hậu tứ quy như xuân, chúng tôi học tập ở đây được hơn một năm thì chuyển về Trùng Khánh. Các xưởng quân giới của Trung Quốc có quy mô khá lớn, được trang bị máy móc tốt hơn ta, các kỹ sư, kỹ thuật viên Trung Quốc rất tận tình chỉ dẫn, chan hoà trong sinh hoạt. Mới giành độc lập hơn 10 năm, chính phủ và nhân dân Trung Quốc còn rất nhiều thiếu thốn, nhưng vẫn dành cho chúng tôi điều kiện ăn ở, học tập tốt nhất có thể.

Với vốn liếng học tập được, cuối năm 1961, chúng tôi từ giã Trùng Khánh về nước, trở lại Nhà máy Z1 thân yêu. Ðịa danh Minh Quán, Trấn Yên, Yên Bái gắn bó với tôi cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Những năm giặc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, rồi 12 ngày đêm Ðiện Biên Phủ trên không ở bầu trời Hà Nội, Nhà máy Z1 đã chuyển lên khu rừng Phú Thọ, đất thánh Vua Hùng. Ðến sau Hiệp định  Paris, chúng tôi lại chuyển về nơi nhà máy cũ đã lỗ chỗ hố bom. Các phong trào thi đua xoay quanh chủ đề: vì miền Nam thân yêu; miền Bắc là hậu phương lớn; ngày làm việc bằng hai; thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người. Sản phẩm của nhà máy cung cấp cho Bộ Quốc phòng ngày càng nhiều, chất lượng ngang bằng với vũ khí viện trợ. Tiếng máy nổ, kim khí va chạm, chúng tôi trao đổi với nhau như quát, có lúc quơ tay, co chân ra dấu; mỗi giờ làm việc là mồ hôi ướt áo. Có lẽ, do nhiều năm làm việc trong tiếng ồn mà tôi mang bệnh nghề nghiệp là nói lớn tiếng, cho đến bây giờ vẫn vậy.

Miền Nam, quê hương hoàn toàn giải phóng, ơi... vui sao nước mắt lại trào. Cha, mẹ tôi ở tuổi bát tuần, anh em tôi đang chờ. Cái giá của độc lập, thống nhất, phải đánh đổi biết bao máu xương, mất mát, chia ly. Một cuộc đoàn tụ chưa từng có trong lịch sử đấu tranh giữ nước. Các cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam được trở về cố quán. Hàng vạn con em miền Bắc đang chiến đấu ở miền Nam được trở về quê hương, đoàn tụ gia đình.

Về Nam, cũng là về quê, tháng 7/1975, tôi được phân công về tiếp quản Lục quân Công xưởng ở Gò Vấp, phiên hiệu mới của ta là Z751. Lao động trong khung cảnh hoà bình, độc lập, thống nhất, ai nấy đều phấn khởi, kể cả những người thợ của chế độ cũ để lại. Những thiếu thốn, khó khăn thời bao cấp tôi cũng từng quen ở miền Bắc nên cũng dễ thích nghi, có khi kém vui nhưng không phải buồn, bi quan. Năm năm ở đây, lần nữa, tôi lại cuốn cả gia đình về Cà Mau, nơi có chiến công đánh chìm tàu Lơ-toa-năng loại lớn của thực dân Pháp ở Mương Ðiều, quê tôi”...

 Mười chín năm sống trong lòng đất Bắc, hai năm ở xứ sở kho truyện Tàu mà ông đã đọc. Ðất Bắc chẳng những là hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam, đất Bắc - Yên Bái, còn là  quê ngoại của các con ông. Rất thú vị khi ông ngân nga mấy câu thơ của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ:

“Ai về Bắc ta đi với

Thăm lại non sông giống Lạc Hồng

Từ thuở mang gươm đi mở cõi

Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”

Về hưu, với tinh thần lạc quan như áng văn của Hỷ Khương: “Còn gặp nhau thì hãy cứ vui/Cuộc đời như nước chảy mây trôi/Lợi danh như bóng mây chìm nổi/Chỉ có tình thương để lại đời”. Với phương châm sống vui, sống khoẻ, sống có ích, ông Dương Thanh Toàn hết nhận nhiệm vụ Bí thư Chi bộ Khóm 6, Phường 2, rồi Bí thư Chi bộ Khóm 7, Phường 8, Trưởng ban Liên lạc hưu trí Phường 8, Uỷ viên Thường vụ Hội Người cao tuổi, thành viên Câu lạc bộ Thơ người cao tuổi Phường 8, Hội thẩm Nhân dân TP Cà Mau, 1 trong 30 vận động viên xe đạp tỉnh Cà Mau tham gia chuyến xuyên Việt đến Hà Nội nhân 55 năm ngày ký Hiệp định Giơnevơ và 55 năm ngày giải phóng Thủ đô. Ông còn có vinh dự được 4 vị Chủ tịch nước từ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tôn Ðức Thắng, Trường Chinh và Trần Ðức Lương ký tặng huân, huy chương các loại; Ðại tướng Võ Nguyên Giáp ký tặng Huân chương Chiến thắng hạng Ba; Phạm Văn Bạch, Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ ký tặng Huy hiệu Kháng chiến Nam Bộ. Năm 2023, được Tỉnh uỷ Cà Mau trao Huy hiệu 60 năm tuổi Ðảng. Mấy lần đến gặp ông để hoàn thành ghi chép này, tôi càng nhận ra chất lạc quan và cả chất thơ ở ông. Chín mươi hai tuổi vẫn minh mẫn và hoạt bát đáng bậc lão trượng. Vậy nên: “Còn gặp nhau thì hãy cứ vui”./.

 

Nguyễn Thái Thuận

 

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.