“Không ai quên được những người lính - những người đã hy sinh cả tuổi thanh xuân, mồ hôi, công sức và cả máu đào - cho nền độc lập dân tộc, cho cuộc sống thanh bình hạnh phúc của Nhân dân.
“Không ai quên được những người lính - những người đã hy sinh cả tuổi thanh xuân, mồ hôi, công sức và cả máu đào - cho nền độc lập dân tộc, cho cuộc sống thanh bình hạnh phúc của Nhân dân.
Thế nhưng, ta không thể nào quên những người lính, ta lại càng không thể nào quên những người vợ lính - những người đã gắn bó một đời với số phận của những người lính, lo nỗi lo của người lính, buồn vui với buồn vui của người lính suốt cả cuộc đời.
Minh hoạ: Hoàng Vũ |
Ðó là những cô thôn nữ quanh năm ăn sắn, ăn khoai, tắm nước ao làng, thế mà da trắng, tóc dài như suối mây, thế mà hàm răng trắng lạ lùng, thế mà má lúm đồng tiền, thế mà đôi mắt đen tròn lung linh lúng liếng có thể làm cho ta hồn lạc phách xiêu. Ðó là những cô thôn nữ chiều chiều ra sông gánh nắng đổ lên những luống vàng khoai bắp đang làm những vồng những luống ấm no. Ðó là những cô gái miền biển da nâu, người chắc lẳn, đôi mắt sáng như sao trời. Ðó là những cô gái của núi rừng má thắm như cánh hoa đào, hàm răng trắng như cánh hoa ban, đôi mắt thơ ngây như đôi mắt nai, tiếng hát véo von như tiếng chim, thanh như dòng suối chảy… Ðó là những cô giáo tuổi mới ngoài đôi mươi, những cô thợ may, thợ dệt phập phồng ngực trẻ… Những người vợ lính còn rất trẻ, tươi như hoa, đẹp như hoa. Hoa thì nở có kỳ có vụ, nhưng nụ cười của họ thì bốn mùa tươi thắm.
Những người vợ lính đang kỳ xuân sắc. Họ có quyền được yêu chiều, ve vuốt, nũng nịu, giận hờn trong tình yêu. Họ có quyền làm đàn bà, làm mẹ. Ấy thế mà họ, biết bao nhiêu người, đã không được thực hiện cái quyền ấy. Vâng, chiến tranh - chiến tranh đã cướp đi của họ cái quyền tối thiểu thiêng liêng ấy.
Thời gian chờ chồng cứ đằng đẵng trôi đi. Mỗi năm ba trăm sáu mươi lăm ngày là ba trăm sáu mươi lăm ngày cực nhọc. Bao nhiêu công việc nặng nhẹ đều đổ lên đầu họ, dồn lên đôi vai yếu ớt của họ. Không ai gánh đỡ, không ai sẻ chia, bởi vì đàn ông trai tráng hầu hết đã ra trận, chỉ còn những người vợ lính với các ông già bà cả và tụi trẻ con. Họ phải hoàn thành trọn vẹn công việc của những nàng dâu hiếu thảo trong gia đình đến việc đồng áng, việc chống hạn, chống lụt bão, đến việc làng việc xã, đến việc chống lại các loại bom phá, bom bi, rốc két, chống trả lũ giặc trời… Họ vừa phải khéo léo, dịu dàng, mềm mỏng, vừa phải mạnh mẽ, cứng cáp vô cùng. Họ đã phải gồng mình lên, làm hết sức mình, làm thay cả phần cho con trai, cho đàn ông, cho cả thế giới. Sức lực và ý chí của họ quả thật phi thường.
Những cánh đồng năm tấn, bảy tấn, những nhà máy, công trường, nông trường, hầm mỏ… họ phải làm việc bằng hai, bằng ba. Những ngôi trường vừa là trận địa văn hoá, vừa là trận địa chiến đấu. Những dòng sông chở nặng phù sa. Những đoàn thuyền lấp lánh mắt chài, mắt lưới. Những đồng muối trắng tinh... Những mùa hoa chiến công từ hậu phương lớn đều do bàn tay, đôi vai, tấm lòng và tâm huyết của những người vợ lính tạo nên. Cùng với tiếng súng và sự hy sinh quên mình của những người lính ngoài mặt trận, những người phụ nữ đã làm nên chiến thắng của dân tộc, đã làm nên độc lập, tự do.
Chiều chiều, khi hoàng hôn tím sẫm ở phía chân trời, những người vợ lính sống trong tâm trạng khắc khoải lo âu và cồn cào thương nhớ. Và đêm, khi màn đêm buông xuống, họ âm thầm chịu đựng nỗi cô đơn. Mà đâu phải là một đêm. Ba trăm sáu mươi lăm đêm. Ba ngàn sáu trăm đêm. Hàng ngàn, hàng vạn đêm như thế…
Tuổi xuân của họ cứ tàn phai, sức lực của họ cứ cạn kiệt dần theo năm tháng… Chiến tranh đã đi qua đời họ, đã tàn phá tuổi xuân của họ. Ðạn bom và sự chia lìa đã tàn phá hạnh phúc lứa đôi… Mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm… may mắn, chồng họ trở về thì cũng còn đâu tuổi trẻ như ngày xưa nữa! Có người đã đầu bạc, răng long.
Nhiều người chồng họ trở về với thân mình đầy thương tích, có người bị chất độc da cam ngấm vào trong máu để lại những di chứng đau thương cho con cháu mấy đời… Nhiều gia đình người chồng thân yêu vĩnh viễn không bao giờ trở về với họ nữa… Máu xương của các anh đã hoà vào sông núi, cỏ cây, hoà vào những cánh đồng, cánh rừng, những dòng sông của đất nước này, cho đất nước này rạng rỡ ánh sáng của độc lập, tự do.
Mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm đối với lịch sử chỉ là phút chốc, nhưng đối với một đời người thì quả thật là dài. Chịu đựng và đợi chờ hàng trăm đêm, hàng ngàn đêm, hàng vạn đêm… quả thật là một sức lực phi thường! Mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm chiến tranh đã tàn phá những gì tốt đẹp nhất của đời người con gái, người đàn bà trong họ. Sức khoẻ và tuổi xuân của họ cứ tàn phai dần theo những màu hoa của trời đất. Sức lực của họ cứ cạn kiệt dần theo sự lớn lên tươi tốt của cỏ cây, theo sự chín thơm mọng hồng của quả, theo sự bội thu của những mùa màng. Nhưng, ngọn lửa của tình yêu và niềm tin ở trong họ không bao giờ tàn, không bao giờ tắt. Theo năm tháng của cuộc kháng chiến trường kỳ, tình yêu và niềm tin của những người vợ lính càng ngày càng cháy lên mãnh liệt, thắp sáng chân lý độc lập, tự do.
Họ thật kiên cường!
Những người vợ lính! Không ai phong họ là anh hùng! Nhưng quả thật, họ xứng đáng là anh hùng và được tặng thưởng những huân chương cao quý nhất!./.
Phạm Minh Giang