Hầu như năm nào cũng vậy, khi những làn gió chướng đầu tiên lao xao trên cành lá là cái rạo rực về những bài báo xuân cứ thôi thúc trong mỗi chúng tôi.
Phóng viên Báo ảnh Ðất Mũi tác nghiệp. (Ảnh minh hoạ) Ảnh: HUỲNH LÂM |
Một buổi chiều mùa đông 1979, khi chúng tôi vừa nhận tiền và công lệnh xong, đang chuẩn bị hành trang cho một chuyến đi xa dài ngày thì anh Sáu Khương, Trưởng đài Truyền thanh huyện Ngọc Hiển và mấy anh bạn công tác ở huyện ghé thăm. Những anh bạn này vốn là “chủ nhà”, đã từng lo lắng cho chúng tôi rất tận tình trong thời bao cấp đầy khó khăn, vất vả qua mỗi chuyến đi. Anh em ghé, mình đâu thể xuề xoà được! Anh Hồ Bình Ðại bấm nhẹ tôi. Và thế là vài phút sau, chúng tôi rôm rả "ly chú ly anh" ngoài quán bình dân.
Cuộc chơi khá dài, cho tới khuya. Sáng hôm sau, vừa buồn ngủ vừa còn ngà say, lại không còn một đồng dính túi, hai đứa liền nảy ra “sáng kiến” giải 2 bịt xà bông ra chợ trời để có chút tiền làm lộ phí đường xa.
Thời đó mua vé xe đò khó trần ai. Có người xếp hàng từ suốt đêm qua vẫn chưa mua được vé. Hai chúng tôi nhờ có thẻ nhà báo nên làm việc đó khá dễ dàng. Nhưng vừa định bước lên xe tìm chỗ ngồi, anh bạn tôi gặp hai cha con bác nông dân nơi ngày xưa anh đóng quân.Thế là tôi lại nhận một cái bấm nhẹ nữa... Hai cha con người nông dân vừa rời bệnh viện có chỗ ngồi êm ái trên chuyến xe đò ấy. Còn hai chúng tôi lại phải đợi chuyến xe sau khá lâu và chấp nhận giá chợ đen đắt gấp đôi.
Xe chở người như gài mắm, lại dùng dằng dục dặc vì ổ gà ổ trâu mãi tới chiều mới đến Cà Mau. Ðói tới hoa cả mắt, chúng tôi lao ngay vào cửa hàng ăn uống, mỗi người một dĩa cơm lót dạ. Tìm nơi ngủ qua đêm để sáng hôm sau xuống tàu đò đi Ngọc Hiển. Tàu đò lúc đó cũng là điều ngán ngẩm. Từ Cà Mau đến thị trấn Năm Căn phải mất một ngày, chứ không như bây giờ, chỉ chừng một tiếng đồng hồ đi bằng ô tô.
Năm đó, tôi được phân công viết về một đơn vị bộ đội nuôi tôm trong rừng đước. Anh bạn đồng nghiệp tôi thì chủ yếu là chụp ảnh cả bìa lẫn ruột cho báo Xuân. Cả hai nơi chúng tôi cần đến chẳng nơi nào có tuyến tàu đò. Mà nếu có, chúng tôi cũng chẳng còn tiền để đi, sau khi tôi vét túi mua một cục thuốc gò và mấy vun giấy hút.
Anh Tám Tài - lúc đó là Chánh án Toà án Ngọc Hiển, ra bến chợ đứng gần một buổi để chờ hai đứa tôi. Cuộc hành trình bồng bềnh trôi nổi lúc xuồng chèo lúc ghe máy ấy đã đưa chúng tôi về với vùng căn cứ kháng chiến cũ. Ăn cơm nhà dân, ngày đi, đêm ngủ. Ngày thứ tư, hết đường sông lại phải băng rừng. Và nơi mình cần đến đã đến: Một xóm nhà rải rác, heo hút chạy dài theo bãi biển phù sa đối diện với Hòn Khoai.
Nước ròng bỏ bãi xa hun hút. Một nếp nhà sàn chữ đinh, không cửa nẻo hiện ra. Một ông già quắc thước treo mình trên võng trước hàng hiên, điếu thuốc rê trắng tàn toả khói.
- Thưa bác, bác có phải...? Ông già lừ mắt, gật đầu. Tôi hồn vía lên mây. Ông già gằn từng tiếng:
- Mấy chú là ai? Tìm có việc chi?
- Dạ, bác có thư.
Mắt không mang kiếng và đọc xong mảnh giấy nhỏ có ghi mấy dòng chữ của người trưởng ấp, cháu ruột của mình, ông già lại đưa chúng tôi một cái lườm như dao cạo:
- Ðược. Mấy chú ở bao lâu cũng được. Mấy chú thấy đó, nhà rộng mà. Hai người, chứ trên chục người cũng còn dư sức ở. Gạo cũng không thiếu. Có điều không có thức ăn. Qua bây giờ đâu còn lặn ngụp được.
Ông lại hất hàm:
- Sao còn đứng đó. Lên nhà đi! Ðể đồ đạc vô góc đó. Ở đây tìm một người qua lại đỏ mắt. Ðừng sợ mất đồ.
Xin gáo nước rửa mặt xong, chân cẳng còn bùn đất quá gối, anh bạn lại giục tôi:
- Nắng chiều đẹp quá. Phải tranh thủ làm vài kiểu mới được. À, chọn hướng để chớp cho kịp buổi hừng đông sáng mai nữa chớ.
Chúng tôi liền đeo máy, men theo con đê dưới hàng mắm nghệ. Hoàng hôn ráng đỏ lấp ló trải dài trên bãi phù sa và trên sóng biển. Những tia nắng chiều làm vách đá Hòn Khoai toả lên màu sáng rực từ ngoài biển xa.
Chúng tôi về đến nhà khi trời chiều đang lịm dần trên miền biển đìu hiu.
Ông già và đứa con nuôi của ông vẫn còn chờ cơm. Bữa cơm thật đơn sơ: mấy con khô khoai nướng và một chén mắm me.
Tôi ăn rồi trước mọi người và lập tức đi châm bình trà cho ông lão, sau đó phụ chú nhóc rửa chén.
Ðêm buông xuống thật nhanh. Bên ngọn đèn dầu, hai đứa tôi trò chuyện cùng ông lão. Ông cho biết, bà lão cùng đứa con gái út của ông đi cúng cơm ở Xóm Mũi vài hôm nữa mới về. Có lẽ ông muốn thanh minh vì sao việc cơm nước không được chu toàn. Trò chuyện không lâu, chúng tôi xin phép đi nằm trước.
Ông già vặn thấp ngọn đèn dầu, rồi lại treo mình lên võng, bên bếp lửa với những gốc cây khô mục un khói. Hai đứa tôi rỉ tai nhau: Sáng mình thức thật sớm. Ðứa nấu nước châm trà, đứa vo gạo nấu cơm.
Một ngày đường vất vả, lại được đắm mình trong không khí mát mẻ trong lành miền biển, giấc ngủ ập đến thật sâu. Và cả hai đều thức thật sớm, thật nhẹ nhàng thu xếp mùng mền. Mọi việc được tiến hành nhanh chóng và hai đứa lại đeo máy ra đi. Chúng tôi không quên mang theo cần móc cua và hơn chục sợi dây trói cua. Tôi giúp anh bạn nghề dựng lại một thân đước khô do hoá chất độc làm chết, bên một cây đước non xoè tán để làm tiền cảnh trên bãi phù sa. Rồi để cho anh ấy say sưa bấm máy, tôi bắt tay vào việc của mình: móc cua. Ðến lúc mặt trời lên quá ngọn mắm ven gành, hai đứa tôi người nào xong việc người nấy: ông "phó nháy” của tôi suýt xoa, hài lòng với những góc độ mới về một vùng biển hồi sinh sau chiến tranh; còn tôi, báo cáo một chùm cua càng lửa ngon lành. Trên đường về hai đứa hả hê ngửa nón bàng hái những lá mồng tơi to bè bò mát chân đê.
Trong ánh nắng vàng của miền biển và tiếng sóng vỗ về xôn xao bờ biển, những cánh gió lượn chao đùa giỡn với ánh rừng, ông già và chú nhóc ra sàn nhà đón chúng tôi với nụ cười hồn nhiên, trìu mến:
- Ðể cua đó, bác với thằng nhỏ làm cho. Hai đứa đi tắm, rồi vô ăn ổi, ăn mía, bác để sẵn ở nhà trên.
Ở giáp ranh cùng ngọn sóng đại dương vậy mà ông già cũng đắp nổi mấy con đê để có được mảnh vườn trồng dừa, chuối, ổi, mía, khoai, nhưng thích nhất vẫn là ao nước ngọt như ở miệt đồng bằng đã làm mát lạnh cái thân hình mấy ngày chưa tắm của hai đứa tôi.
Bữa cơm trưa đầu tiên ấy ngon đến khó tả. Chúng tôi lại ngửa mình trên sàn gỗ đước bóng mẩy mát lạnh, phóng tầm mắt ra ngàn khơi mà xước mía, mà ngắm Hòn Khoai xanh thẳm uy nghi. Công việc chúng tôi chỉ bắt đầu vào lúc hừng đông và khi hoàng hôn. Thời gian còn lại là phụ việc nhà và trò chuyện cùng ông lão.
Xóm ven gành của ông chỉ có chục ngôi nhà mà rải ra hơn hai cây số bờ biên. Những ông già định cư vùng này lâu đời là mấy cựu chiến binh cùng con cháu của họ có một cuộc sống như tách biệt với xã hội bên ngoài. Họ ngăn mặn, lập vườn rồi bán hoa lợi để mưu sinh. Họ thương yêu nhau như máu mủ ruột rà nên thấy chẳng lẻ loi. Có điều trẻ em thì thất học, đau ốm... Cán bộ xã, ấp hàng năm, sáu tháng mới đến đây. Cuộc sống tách biệt, đói thông tin đến mức thờ ơ với thời cuộc. Duy tình người và tấm lòng với cách mạng thì vẫn cứ đong đầy.
Phóng viên Báo Cà Mau và Ðài PT-TH Cà Mau tác nghiệp. (Ảnh minh hoạ). Ảnh: HUỲNH LÂM
Thấy tôi ở chợ mà biết bắt cua, thụt cá thòi lòi, ông già ra chiều nghi vấn lắm. Tôi thật lòng kể là lúc nhỏ theo cha và các chú ở đơn vị kho tàng của đường Hồ Chí Minh trên biển đóng ở vùng này. Mắt ông già chợt sáng như sao mà long lanh ngấn nước. Ông nói tên không sót một người, trong đó có cả cha tôi. Ông nhắc lại không biết bao nhiêu trận đánh. Giọng của ông run run khi nhắc đến những người hy sinh. Ông nói: "Hơn 5 năm rồi, kể từ ngày đơn vị rời xa xứ này, xóm này như bị bỏ rơi, chẳng ai lui tới. Ngày tụi nó còn ở đây, tối lửa tắt đèn có nhau. Bà con nào trong xóm đau ốm đều được y tế cơ quan chăm sóc thuốc men. Tụi nó ở bí mật lắm. Chỗ ở không thể cho dân lui tới. Con rạch tụi nó ở gần đây mà dân thường gọi là rạch chú Sáu, ông già thằng này đây - ông chỉ tôi - ngoài vàm không hề thấy một dấu dầm chèo, một nhát dao chặt vào cành lá. Kín đáo là vậy, cách biệt là vậy, mà cái tình của tụi nó với bà con khác nào bà con ruột thịt. Lâu không thấy đứa nào bén mảng, nhiều lúc cũng giận. Mà nghĩ lại mới thấy mình không đúng. Ngoài biên giới giặc giã quá chừng. Nghe nói mấy đứa nó bây giờ đem tàu sắt trấn giữ mấy nhánh sông Cửu Long vùng biên giới.
Vâng, ông đâu chỉ biết và bao bọc chở che cho những kho tàng quân sự của cách mạng, hồi bác Ba Pháo nuôi giấu đồng chí Lê Duẩn ở xứ Kinh Năm, Rạch Thọ, Khai Long này, ông làm sao không biết. Nhưng Khai Long vẫn là một trong những nơi an toàn của đồng chí Lê Duẩn hoạt động ở miền Nam trước ngày Ðồng khởi. Vậy mà ông chỉ hay nói: "Bà con xóm này có đòi hỏi gì đâu. Có điều nhớ mấy chú nó quá. Hồi đó sao mà thương nhau!”.
Mấy ngày trôi qua trên xóm biển, công việc của chúng tôi chẳng có gì mới hơn là chờ thời cơ: mây, nắng, sóng triều để chụp ảnh. Cái khác là mấy ngày qua tình người mỗi lúc ấm áp hơn.
Dù buổi sáng hôm sau, chúng tôi có dậy thật sớm thì ông cũng đã đi rồi. Ông đi thật xa để khi về mang những con cá ngát đầy trứng. Và trong bữa cơm ông đã trìu mến gọi hai đứa tôi bằng cháu, thay vì gọi các chú như buổi ban đầu.
Buổi chiều trước ngày chúng tôi từ giã, từ ngoài rừng vừa bước tới cầu thang đã thấy nhà ông chật người, mùi thịt rừng lớp nướng, xào thơm nức. Ngồi vào mâm, cầm chai rượu đế trong veo, ông nói dõng dạc mà cổ chúng tôi nghèn nghẹn.
- Xứ này mà chồn cáo cọc họ bán tới 10 đồng một ký (tiền tôi được cho ứng đi công tác 1 tháng chỉ có 25 đồng). Nhưng thây kệ. Ngày mai hai thằng cháu tôi nó về Bạc Liêu rồi, không biết chừng nào trở lại. Thôi vô đi!
Anh bạn tôi tửu lượng khá lắm nên cứ luôn tiếp kiến với các bạn trai làng. Còn tôi chỉ vài tuần rượu đã say mèm. Và có lẽ đó là lần đầu tiên cùng một lúc tôi biết mình say hai thứ: Tình người và rượu.
Ngủ quá sớm nên chỉ một, hai giờ khuya là tôi đã thức. Qua vách mùng trông thẳng ra ngàn khơi, vầng trăng đỏ rựng ở phía trời đông. Gió chướng rao rao se lạnh. Từng chập, từng chập sóng biển theo con nước liếm vào bãi phù sa xa lắc ngoài kia xạc xào đến thổn thức. Ký ức mỗi lúc dồn về, lòng tôi ngổn ngang bao nhiêu nỗi nhớ, nghĩ suy bao việc muốn làm. Như trăng, như gió, như thuỷ triều cùng sóng biển hoà nên một hợp tấu, một bức tranh huyền diệu mênh mang.
Anh bạn tôi cũng trở mình. Và tôi biết anh đã thức. Chúng tôi thầm thì tâm sự cùng nhau, nhắc nhở biết bao điều sâu lắng. Có thể nói, tôi ít có cuộc tâm sự nào vô tư, ngọt ngào như thế trong đời. Và cũng thật hiếm có chuyến đi nào nghèo khổ mà kỷ niệm đến vậy.
Nhưng chúng tôi đâu có hay ông già đã thức tự bao giờ và đang ngồi bên bếp lửa.
- Thôi, thức dậy uống trà đi mấy cháu. Nước lớn giác khuya này, tiếng sóng vỗ vào gành khó mà ngủ được.
Sáng hôm sau hai đứa tôi từ giã ông già và cả cái xóm nhỏ ven gành heo hút đối diện với Hòn Khoai.
Hai đứa đã khuất vào vạc đước non mà ngoái đầu nhìn lại ông vẫn còn đứng đó ở đầu con đê, dưới tàn mắm nghệ.
Chuyến đi đó, tôi chẳng viết được gì về xóm ven gành ấy, ngoài ý kiến phê bình việc ông chính quyền xã ôm trọn số tiền bà con quyên góp để cất trường, rồi đi biệt tăm. Sau này tôi được biết, ông chính quyền xã đó rất hậm hực khi xem báo. Ông ta cắt luôn bài báo cất kỹ trong cặp táp. Nhưng mà xóm của ông già mấy năm sau vẫn chưa có trường, chỉ có một đống lá dừa nước mục dần theo thời gian trên cái nền đất mà bà con đắp sẵn ở chân đê.
Mấy chục năm rồi không trở về Kinh Năm, Rạch Thọ, Khai Long, nhưng cứ mỗi lần nhớ về xóm nhỏ ven gành ở nơi cùng trời cuối đất ấy là lòng tôi xốn xang. Tiếng sóng biển sao mà thổn thức đến nao lòng.
Trên dặm dài bờ biển bao bọc lấy bán đảo phù sa màu mỡ mà lắm nhọc nhằn lao khổ này có còn bao xóm ven gành như nơi tôi đã đến?!
Bút ký của Nhà báo Nguyễn Bé