Một chiều cuối tuần, ngồi ở quán cà phê quen thuộc, mở laptop ra xem những tấm hình mà bạn gửi, chợt hình ảnh quê nhà hiện ra gần quá. Dù xa quê, bao năm mới trở về một lần nhưng bao nhiêu cái đẹp của quê nhà, luôn được cập nhật qua trang cá nhân của tôi. Một cảm giác quen thuộc, gần gũi lại hiện ra, và thấy tim mình cứ phập phồng nhảy múa trước vẻ đẹp của quê hương xứ sở...
Một chiều cuối tuần, ngồi ở quán cà phê quen thuộc, mở laptop ra xem những tấm hình mà bạn gửi, chợt hình ảnh quê nhà hiện ra gần quá. Dù xa quê, bao năm mới trở về một lần nhưng bao nhiêu cái đẹp của quê nhà, luôn được cập nhật qua trang cá nhân của tôi. Một cảm giác quen thuộc, gần gũi lại hiện ra, và thấy tim mình cứ phập phồng nhảy múa trước vẻ đẹp của quê hương xứ sở...
Ðó là những chùm bưởi rám nắng, buồng chuối vừa chín tới trong vườn, những chậu cúc vàng trước hiên nhà, hay những chú chim sẻ dễ thương đang nhặt nhạnh từng hạt thóc còn sót lại của mùa lúa cũ. Những sợi nắng mỏng manh như tơ trời cứ rơi dần, rơi dần xuống vườn rau của mẹ. Ðặc biệt hơn, luỹ tre làng bao năm vẫn xanh ngắt một màu, vẫn trường tồn theo năm tháng. Chỉ bấy nhiêu đấy thôi, nhưng sao thấy lòng khắc khoải và nhớ nhà da diết.
Minh hoạ: Hoàng Vũ |
Tôi không biết bụi tre, khóm trúc đầu tiên do ai trồng, mà khi sinh ra và lớn lên chúng đã có từ bao giờ. Vào những buổi trưa hè yên ắng, nằm trên võng đung đưa, lắng nghe được bao âm thanh du dương, như những giai điệu trữ tình cất lên từ đó. Ngày ngày, đạp xe trên con đường làng quen thuộc, tre hai bên đường rụng lá ngập lối đi. Tre mọc thành bụi, thành luỹ, che chở nhau qua mưa gió. Màu xanh của tre tạo nên những cung bậc cảm xúc khác nhau mỗi khi tôi về làng. Và những bờ tre quanh làng đã trở thành một hình ảnh quen thuộc, nó đeo bám trong tâm hồn người đi xa.
Cái thuở mới biết yêu, tôi thấy lòng bồi hồi khi nghe tiếng guốc của ai đó, mỗi khi tan trường, ngang qua đường làng dưới bóng tre mát rượi. Nhớ lời ru của mẹ bên chiếc võng đưa đều bên bụi tre sau hè. Nhớ những câu chuyện bà kể gắn liền với bao câu chuyện cổ tích. Tôi vẫn thích nhất khi được nghe bà kể chuyện cổ Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc ngoại xâm. Và bao câu chuyện cổ tích khác có ông bụt, bà tiên, có cây tre gắn với hình ảnh của những con người bất hạnh.
Tre hiền lành, gắn bó với cuộc sống của người nông dân. Tre gần gũi trong nồi nước lá xông của mẹ mỗi lần tôi bị cảm. Thanh củi tre cháy xì xèo cho nồi khoai vừa kịp chín, vào mỗi buổi sáng cho tôi ấm bụng đến trường.
Dưới bóng tre, vào những buổi trưa hè nắng như đổ lửa, con trâu già nằm nhai cỏ, phe phẩy cái đuôi. Ðó cũng là nơi nghỉ ngơi của những cô bác nông dân, sau một buổi làm đồng vất vả. Những câu chuyện đời, chuyện người cứ truyền tai nhau dưới bóng tre làng.
Tre không kén đất. Tre cần cù chịu thương, chịu khó như bản chất của người nông dân. Tre mọc sau hè, bên bờ rào, khắp mọi nơi trong làng và tiếng chổi tre quét lá của bà cứ đều đều vào mỗi sáng. Dưới bóng tre, chúng tôi ngồi tụm năm tụm bảy chơi ô làng, nhảy dây. Tuổi thơ chìm ngập trong sắc xanh của tre làng. Hoàng hôn buông xuống, khói lam chiều bảng lảng vương vấn trên những ngọn tre, mùi cơm gạo mới nhà ai cứ ám ảnh tâm trí kẻ đi xa.
Ngày còn bé, tôi thường cùng chúng bạn ngồi chồm hổm để xem người lớn chẻ tre. Và sản phẩm từ cây tre đa dạng, phong phú biết bao. Có khi đó là đôi đũa tre, cán cuốc, cán dao, hay cái đòn gánh mà mẹ hay dùng để gánh buồng chuối, bó rau, quả bí ra chợ. Vui nhất là được xem bố chẻ tre để làm chuồng gà, làm lồng đèn ông sao cho những đứa em chơi rằm Trung thu.
Những chiếc đèn ông sao lấp lánh đủ màu sắc lung linh trong đêm rằm, đẹp như trong truyện cổ. Con nhà nghèo có thú vui riêng của con nhà nghèo, cứ mỗi khi Tết Trung thu, nhà nào cũng có thể chọn một cây tre thẳng, để làm lồng đèn, làm những đồ chơi bằng tre cho trẻ em trong làng nắm tay nhau cùng đi chơi rằm. Hình ảnh cây tre được chúng tôi yêu quý, trân trọng từ những thú vui tuổi thơ ấy, từ những bài tập làm văn mà cô giáo yêu cầu tả về một loài cây mà em yêu thích nhất.
Tre gắn với bao chiến công trong thời kỳ đánh giặc cứu nước, tre đi vào nếp sống, nếp sinh hoạt của người nông dân, và nó xuất hiện trong những bữa cơm nhà nghèo. Mùa mưa lũ kéo về, khi thức ăn trong nhà vừa hết, thì măng tre là một trong những thực phẩm lý tưởng để chế biến bao món ăn qua ngày, để chống chọi lại cái đói, cái thiếu thốn.
Sau này, đời sống khấm khá hơn, măng tre hái vào phơi khô, để dành nấu nướng mỗi khi nhà có khách đến chơi như măng khô hầm giò heo, măng khô nấu sườn, xào lá lốt. Măng theo con cái trên những chuyến tàu xa nhà, lang bạt nơi đất khách quê người. Ăn măng với cơm trắng để gợi nhớ bao tình quê. Nhớ những nụ cười, câu chuyện kể, bao nét mặt của người trong làng.
Bức tranh quê sẽ đẹp biết mấy nếu có cây đa, bến nước, con đò, có những mái tóc dài bay trong gió với chiếc áo bà ba. Nhưng bức tranh quê sẽ không trọn vẹn nếu thiếu đi cái sắc xanh giàu sức sống của những luỹ tre làng. Và ở trong cái sắc xanh huyền diệu ấy luôn là một thế giới của tuổi thơ đầy tiếng cười, ăm ắp những kỷ niệm.
Chuyến tàu tuổi thơ không có vé khứ hồi, sân ga nỗi nhớ bằng phẳng màu xanh biếc của tre. Và chiều nay, một cơn áp thấp nhiệt đới lại về, chắc lá tre rụng nhiều lắm, và rồi sáng mai thức giấc; tiếng chổi tre của bà cứ xào xạc, xào xạc trong khu vườn đầy tiếng chim kêu. Ở đâu đó, trong tâm trí của những người xa quê, bụi tre quê nhà vẫn cứ xanh ngắt một màu, dạt dào trong biển nhớ./.
Thân Thị Thanh Trâm