“Nhặt lên từ bùn" của tác giả Nguyễn Hữu Thắng vừa được Nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành. Tập thơ gồm 100 bài sáng tác sau khi nghỉ hưu (từ năm 2018-2021). Có bài đọc ở lễ truy điệu một nhà văn lớn, làm cả tang trường nức nở. Có bài trở thành dữ liệu cho đề thi học kỳ của trường chuyên văn lớp 12, lớp 9 của mấy tỉnh. Có bài được đồng cảm, chia sẻ trên hàng ngàn trang Facebook để rồi quyên góp được sổ tiết kiệm cho những đứa trẻ mồ côi sau vụ tai nạn giao thông thảm khốc.
Từ những bài thơ sáng tác đăng Facebook, được người dùng mạng xã hội yêu thích, tác giả đã góp nhặt thành tập thơ “Nhặt lên từ bùn” và tự nhìn nhận rằng: “Thơ thời sự, thơ chính sự, thơ tự sự, thơ chống thiên tai, chống Covid, thơ viết tại Thành cổ Quảng trị, thơ tình... phơi hết tim gan, cảm xúc của một lão về hưu trên từng câu chữ”. Thế nhưng, những vấn đề thường ngày đó, thậm chí là cả những vấn đề thời sự khi Chính phủ triển khai một nghị quyết mới, qua góc nhìn của người từng trải với cuộc sống và giàu tình cảm đã chạm vào cảm xúc của người dùng mạng xã hội, được chia sẻ như góc nhìn đầy tích cực, nhân văn.
Ðất nước, quê hương là mảng đề tài quan trọng trong tập thơ “Nhặt lên từ bùn” của Nguyễn Hữu Thắng. Tình cảm dành cho đất nước, quê hương, Bác Hồ là điểm nổi bật trong tập thơ này của anh. “Ngày xưa Thầu Chín ở đây/Sớm hôm đi cuốc, đi cày với dân/Ðơn sơ một mái nhà tranh/Hai gian hai chái mà thành quê hương/Trúc tre kết lại thành giường/Cối xay, rổ rá, giần sàng cũng tre” (Thăm nhà Bác Hồ ở Bản Mạy, Thái Lan). Ngoài ra, còn có các bài như: "Nhớ câu thơ Bác tặng", "Chi bộ phố tôi", "Tiếng máy cày còn vọng"…
Quê hương trong “Nhặt lên từ bùn” còn đầy chất thôn quê, mộc mạc bởi: “Nhà quê không bán, không mua/Mỗi người một cõi xa xưa để dành”. Bởi lẽ “Dù năm dù tháng bao nhiêu/Nhà quê mộc mạc vẫn neo chữ tình/Vá may bao cuộc rách lành/Chắt chiu năm tháng mới thành nét quê…” (Nhà quê).
Theo nhịp sống hiện đại, dần dần những làng quê được đô thị hoá. Thế nhưng, với những ai đã từng lớn lên từ làng, được nuôi dưỡng từ hạt lúa, củ khoai, gắn bó ký ức ấu thơ với bờ tre, bến nước thì lòng họ luôn neo về bến quê xưa. “Vẫn vẹn nguyên tình đất, tình người/Có một mảnh làng da diết mãi trong tôi/Những chiếc cầu, bờ tre, bến nước/Những tên đất, tên người thân thuộc/Neo đậu hồn quê - một cõi đi về” (Làng bên sông).
Vẫn chung thuỷ với lối viết truyền thống nhưng không phải vì thế mà thơ bớt hấp dẫn. “Ngày xưa… nhớ lại mà thương/Có những mối tình hoa dẻ/Rú rậm, truông dài lặng lẽ/Lối mòn ai tiễn đưa nhau” (Hoa dẻ). Bao nỗi chung riêng trộn hoà trong hương thơm dịu dàng của những cánh hoa vàng lấp ló trong tầng lá xanh giữa nắng gió mùa hè. Cũng chính từ đó, ta vẫn thấy sự lãng đãng và thăng hoa trong những ý thơ về tình yêu đôi lứa khá xao xuyến: “Em vô tình nhặt được/Ðem ép vào trang thơ”.
Mảng đề tài lấy được nhiều cảm xúc của độc giả chính là về người lính. Xúc động là câu chuyện về một buổi chiếu phim cho các liệt sĩ ở Thành cổ Quảng Trị xem trong bài thơ “Xem phim cùng liệt sĩ”: “Buổi xem phim góp mặt mấy sư đoàn/Hàng ghế này chốt thép Long quang/Hàng ghế này Nhan Biều, Bến Vượt/Hàng ghế này… tên không nhớ được/Lính vào thành chưa kịp nhận mặt nhau/Ðồng đội ơi, ở đâu/Sư 320 hay Trung đoàn 27/K10 đặc công hay mật danh Triệu Hải/Lính sinh viên mới được tăng cường…/Tất cả hướng lên màn hình/Bộ phim “Mùi cỏ cháy”/Nhân vật trong phim cũng là lính đấy/Những binh nhì đang tuổi mộng mơ/Bom rơi dày như mưa/Ðạn nhiều như vãi trấu/Gạch Cổ thành đỏ bầm như máu/Thạch Hãn trôi áo mũ bập bềnh/Những linh hồn xem phim/Thấy bóng mình lao trên màn ảnh/Tám mươi mốt ngày đêm, hàng trăm trận đánh…”.
Ðể có được tự do, độc lập và hạnh phúc hôm nay phải đánh đổi bằng sự hy sinh của bao nhiêu liệt sĩ với mộ chí không có tên tuổi. “Mênh mông mộ, mênh mông điệp khúc/Chưa biết tên…/Chưa biết tên…/Chưa biết tên…/Tháng Mười hai, ai nhớ ai quên/Hồn liệt sĩ hát quân hành lặng lẽ/Ðếm mỏi mắt, đi mỏi chân, mộ chí/Những hàng bia chung một dòng tên/Chưa biết tên…/Ðọc lên thấy quen quen/Mà đau đến tận cùng xương tuỷ. (Chưa biết tên)
Thơ Nguyễn Hữu Thắng có nhiều chất đời sống, nặng về tình cảm, thế nên không ngạc nhiên khi bài thơ “Nhặt lên từ bùn” được tác giả viết trong những ngày mưa lũ, sạt lở đất ở miền Trung, gây xúc động mãnh liệt, được đông đảo bạn đọc đồng cảm và chia sẻ, được nhiều trường học trong cả nước dùng làm đề thi môn Ngữ văn lớp 9 và 12 là thành công rất đáng ghi nhận. “Nhặt lên từ bùn/Tấm áo lính mang quân hàm binh nhất/Chiếc thẻ nhớ có khuôn hình khói bếp/Vị tướng ngồi sốt ruột đợi qua đêm/Nhặt lên từ bùn chiếc áo sơ sinh/Người mẹ lật thuyền ngày trở dạ/Chiếc cặp sách bám bùn tơi tả/Trang vở nát nhàu nét chữ vẹo xiêu”.
Từ bùn đất, sau cơn đại hồng thuỷ, nhà thơ thấy được vẻ đẹp của tình người Việt Nam: “Nhặt lên từ bùn dấu những bàn chân/Ùn ùn người đi cứu nạn/Vết xe lăn Cà Mau, Bắc Cạn/Tiếng chào nhau hoà giọng ba miền” (Nhặt lên từ bùn). Và “Mọc lên từ bùn những đóa sen thơm”…
Minh Anh