Buổi sáng cuối đông năm 1973, bầu trời se lạnh. Chúng tôi ngồi viết báo Tết trong khu vườn dừa của chú Sáu Lân ở ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.
MH: Minh Tấn
Hồi ấy, tâm lý làm báo của anh em chúng tôi là vậy, mỗi khi ngồi viết bài thường hay lánh mặt khỏi cơ quan vì rất ngại gặp khách, tiếp khách, cho dù đó là người bạn thân thiết. Bởi vậy, khi viết báo xuân, công việc “gấp như gấp Tết”, thời gian lúc đó đối với chúng tôi quý như vàng.
Cách lánh mặt phổ biến của anh em chúng tôi là thường hay trốn ra sau vườn (sau cơ quan), mỗi đứa tìm một nơi ngồi viết, không đứa nào gần đứa nào. Chỉ trừ lúc “bí” quá không viết được nữa mới tìm đến chỗ của người khác để chọc phá hay tào lao năm ba câu chuyện gì đó cho khuây khoả rồi ngồi lại viết tiếp. Cứ vậy, cực mà hào hứng. Thời gian viết báo Tết sinh khí cơ quan luôn vui nhộn. Cứ sau mỗi buổi sáng cơm nước xong là chúng tôi "bung” ra hết, mạnh đứa nào đứa nấy tìm cho mình một chỗ viết, tới khi trời xế chiều mới tụ họp về. Lúc đó càng đông vui hơn, ngoài việc chuyện trò, cười giỡn hoặc thuật lại cho nhau nghe chuyện bài vở của mình, rồi đứa xách giỏ đi câu cá, thăm lưới, đứa lội nhổ bông súng dưới bàu, đứa trèo lùm bẻ trái giác nấu canh chua, đứa mần cá, chẻ củi, vo gạo...
Thời đánh Mỹ gian khổ, ác liệt từng giờ như vậy, nhưng mỗi lần viết báo xuân đã trở thành kỷ niệm sâu lắng không thể phai mờ đối với cuộc đời làm báo của chúng tôi.
Và hôm ấy, tôi ngồi viết bài dưới gốc cây khế ngọt, ngồi xếp bằng, trước mặt là cái thùng sắt lật nghiêng được kê lên hai bắp vế để làm "bàn" viết. Anh Minh Nối khi đó ở bên kia bờ dừa, trên tay còn khệ nệ cặp ngang hông một tấm ván xuồng để làm bàn viết. Áo anh cởi trần vắt vai, đầu hớt cao, tay kia bưng bộ bình trà. Anh còn lom khom lội tới lội lui vì chưa tìm ra được chỗ ngồi viết cho vừa ý. Xa kia, cuối bờ liếp, dưới bóng tre mạnh tông cao nghệu, chú Mười Hiến đã mắc xong chiếc võng hồi nào. Chú đang ngồi, hai bắp đùi gác chéo lên nhau, buông thõng hai bàn chân xuống đất. Chiếc võng lúc lắc đưa. Ngọn tre rì rào gió. Chú Mười chăm chú viết mà miệng nói lép nhép như đọc đi đọc lại một đoạn văn nào trong bài.
Riêng cánh viết của chế Sáu Kiều, chú Út Rô, anh Tư Sử, anh Tư Dũng, Hồng Nhiên thì đã đi xuồng ba lá cũ qua bên kia đập Xẻo Trê tự nãy giờ.
Tôi cắm cúi ngồi viết được một chặp thì phải buông viết, đứng dậy đi tới đi lui quanh quẩn cho đã cái lưng. Quen tật rồi, không thể ngồi lâu cắm cúi viết được, lại đưa mắt dòm ngó, trong bụng tôi mắc "ngứa ngái" muốn kiếm chuyện đi chọc phá, cũng vừa lúc "bí”, đầu óc quá tần quần. Nhưng ngặt nỗi bài viết của mình chưa xong, còn "cù” nhiều nên tôi không thể...
Anh Minh Nối lúc này mới bắt tay vào viết, miệng anh còn ngậm điếu thuốc gò khá lớn. Trước khi bắt tay vào viết, anh phải làm đầy đủ mọi thủ tục: súc bình, châm nước trà, kế đến ngồi uống vài ba ly cho đã tật, còn lật bì vấn hút thêm vài hơi thuốc gò nữa mới chịu viết. Thoáng nhìn thấy anh tôi không sao nhịn được cười: một đầu tấm ván anh gác lên hai bắp vế, đầu còn lại kê vào gốc dừa - tấm ván thành chiếc bàn dã chiến của anh rồi. Buồn cười hơn nữa là trên chiếc bàn, anh Nối bày đầy những giấy tờ, bản thảo, còn thêm mấy tập sách truyện của Nguyễn Mai, Lê Vĩnh Hoà. Chưa hết, anh còn đặt lên đó thêm bộ bình trà với ba cái tách. Xa về phía trong gần gốc dừa là một cục thuốc gò gói bằng giấy "nhựt trình". Mới nhìn sơ qua, nếu ai sơ ý tưởng là anh ngồi bên chiếc bàn thật chớ không nghĩ đó là tấm ván.
Tôi lại ngồi xuống bắt tay viết tiếp. Viết được một đoạn, chợt nghe có tiếng con cu đất gáy trên lùm tre, tôi đâm ra nhớ nhà, nhớ da diết má tôi, mấy đứa em tôi. Nhưng tôi không về thăm má và em tôi được vì nhà còn trong ấp chiến lược của Mỹ - nguỵ. Ðang nghĩ ngợi mông lung thì ngọn viết bất ngờ bị xốc, nét chữ tôi khác đi. Tôi vẫn để vậy ngồi lì viết tiếp. Trong gió lạnh, tự dưng anh Minh Nối cất giọng ngâm nga mấy câu thơ làm tôi vơi buồn, ấm áp lại:
"Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ".
Tôi cất tiếng chọc ghẹo :
- Ê, bộ "bí" rồi sao cha? Hay là nhớ em Xuân ốm?
Minh Nối ngưng giọng, ngoái đầu qua liếc mắt nhìn tôi. Anh cười xoà, vừa kẹp lại điếu thuốc gò trong tay đưa lên môi, anh nói ngay, giọng cà rỡn:
- Còn ông, bộ thất tình hay sao mà ngồi ủ rũ? Nè, nói gì thì nói chớ chiều nay tôi với ông thế nào cũng ráng "chém vè" về Khâu Bè, Giáp Nước nghen?!
Vừa nói, anh vừa đưa bàn tay lên che miệng như thể muốn giữ kín đừng để chú Mười nghe được, và tiếp:
- Con nhỏ đó coi vậy mà "vó mái” lắm chứ, cấy hái nó cũng giỏi. Thôi, nghỉ chút đi. Qua đây chỉ coi nè. Tao viết đoạn này quá đã. Qua nghen...
Thấy tôi còn nấn ná chưa chịu buông tay, anh Nối hạ giọng:
- Giòng thuốc gò ngon thấy mẹ mà mầy hổng chịu qua gấp. Uổng quá...
Tôi bật cười, không sao nhịn được cười vì câu nói mới vừa rồi của anh. Có lẽ vì lúc "hứng" nên anh quên mất, tôi đâu biết hút thuốc. Anh thì hơn tôi, làm được ráo. Từng sống chung lâu, anh em biết nhau rành, thương nhau đứt ruột anh mới nói với tôi câu đó. Âu cũng là đặc tính của anh Minh Nối.
Thoạt cái, đang trong giây lát yên tĩnh trò chuyện chợt có tiếng con "đầm già” rè rè từ hướng Cà Mau bay tới, vô tình làm cắt ngang câu chuyện giữa tôi với anh. Tôi kịp đưa tay lên che mắt, nhìn qua kẽ lá tàu dừa xào xạc, chiếc máy bay trinh sát L19 đang bay trờ tới. Linh tính như báo trước có chuyện sắp xảy ra, nhưng tôi còn ngồi nán viết thêm mấy câu nữa cho hết đoạn. Con đầm già khi đó đã bay qua, đôi cánh nghiêng nghiêng như liếc mắt dòm ngó. Rồi nó vòng đảo lại, hạ thấp xuống một chút, cũng nghiêng nghiêng đôi cánh.
- Cha chả! Bộ tính "chơi" thiệt hả. Không thấy có "ông cố nội” mầy ngồi đây sao?
Chú Mười Hiến đến giờ này mới chịu cất tiếng. Nói xong, chú phóng xuống đất cái rột, hai tay cuốn vội chiếc võng ni lông bỏ vào túi bồng màu cứt ngựa.
- Phản lực, phản lực nghen!
Minh Nối thét lớn. Từ phía nhà bếp của cơ quan, ba em làm công việc văn phòng: Minh Xuân, Mận và Thanh Hải chạy tuôn ra. Mặt Hải còn in đầy dấu chiếu lác nổi bên má. Tôi đoán biết là Hải còn say ngủ, vì đêm hôm nó thức khuya đi chài kiếm cá cho anh em ăn no lấy sức viết báo Tết. Mận không quên vác theo cái máy đánh chữ trên vai. Riêng Hải, tay cầm chặt cây súng trường bá đỏ, vai mang chéo một túi mìn cơ-lây-mo đựng đầy đạn. Chú Mười Hiến, người ốm yếu nên chạy lọt tuốt ra sau chót. Anh Minh Nối vừa nghe tiếng phản lực là đứng dậy chạy trước và còn ngoái đầu lại, nói lớn, căn dặn Hải:
- Nè, nè. Mầy đừng có bắn nghen, nhớ nghen! Trật lất hè, tao biết. Rủi lộ cái chết...
Hải nghe qua tự ái, vội bồng súng lên ngay, vừa ngoẻo đầu qua bên giả bộ như đang nhắm bắn chiếc "đầm già" làm cho Minh Nối càng tức giận. Anh nạt:
- Ðu hoả. Mầy có ngon thì chạy khơi khơi ra đồng đứng một mình mà bắn. Ở đây bắn trật, lộ ra nó phóng pháo chết cả đám nhà báo nè. Cả đám nè!
"Cảo... đùng!". Con đầm già liền găm đầu xuống phóng trái pháo chỉ điểm. Pháo nổ bên kia sông, cột khói bựng lên cao nghệu. Hai chiếc F105 tựa như hai con chim én bay xà tới đảo một vòng rồi lần lượt cắm xuống ném bom. Chúng rầm rú hung dữ trên đầu. Lớp bom nổ, lớp súng đạn các cỡ của bộ đội, du kích từ mặt đất bắn lên làm đinh tai điếc óc. "Ầm", một trái bom nổ gần đến mức tưởng chừng như sát bên đít, làm không ai kịp nằm xuống. Miểng, đất bay rào rào trên đầu. Ðám lá dừa nước lúc nãy còn rì rào và đứng xanh miết bên kia bờ sông, giờ đã ngã rạp hoang sơ không còn một bụi vì trái bom ác nghiệt. Tôi lồm cồm đứng phắt dậy, hai tay vừa quơ gộp mớ bản thảo văng ra vung vãi, vù chạy tới, không ngờ được mấy bước bị vấp tiếp đám dây choại, té "ùm" xuống ao bèo. “Ầm", lại một trái bom nữa nổ. Mặt đất như sàng gạo. Ngọn dừa lão cao trật ót, đứng lưu niên trên bờ liếp của ông Sáu bị miểng phang đứt tiện - ngọn dừa phóng thẳng xuống còn chút xíu nữa cắm phập lên đầu tôi. Hú hồn... Tôi hoảng, liền đưa tay ra cào hốt, vẹt vội mấy lá tàu dừa ngã đập trên đầu để trườn lên bờ. Lúc lên được, tưởng đâu mọi người đã chạy ra tới hầm hết rồi, ai ngờ anh Minh Nối còn bị vướng mắc cây cỏ, dây nhợ nhùng nhằng ở phía sau. Tôi co giò đá "bịch" vào đít anh một cái. Tôi nạt lớn:
- Mắc mớ gì hổng chịu buông tấm ván ra. Cứ ôm nó chi cho bị vướng mắc không chạy được. Buông ra...
Tới nước này Minh Nối như chực nhớ, anh liền quăng ngay tấm ván, tốc chạy theo tôi. Nhìn anh, tôi nghĩ chắc có lẽ vì quýnh quáng thế nào nên anh "bợ" nguyên tấm ván vậy chạy mà không kịp nhớ ra. Lại một trái bom nữa nổ. Lỗ bom khoét sâu làm đứt hết bờ liếp rau muống của vườn ông Sáu Lân. Tôi vấp phải nhánh cây té sấp. Minh Nối khi đó chạy trờ tới vướng phải chân tôi, cũng té quỵ. Hai đứa lại bươn bả đứng dậy, chạy tiếp. Khi tôi và anh Minh Nối chạy ra được tới miệng hầm sau vườn thì gặp ngay chú Mười Hiến. Hổng ngờ sức già ốm yếu như con mắm vậy chứ chạy tới trước bọn tôi. Chú còn đứng thở hào hển bên miệng hầm chữ L, mình mẩy dính đầy sình đất. Có chuyện lạ là chú Mười hết sức tự nhiên, cứ đứng dựa lưng vô vách hầm vừa thở, vừa hát lao xao nghe tiếng được tiếng mất: "Cúc cu, cúc cu... rừng ca trong nắng... Êm nghe... êm nghe nhạc rừng reo liên miên. Rừng hát...".
- Trời đất! Ðúng là “tiếng hát át tiếng bom”. Chú Mười coi vậy mà yêu đời hết cỡ ta?
Tôi day qua nhìn Minh Xuân. Nghe em vừa mới nói, chú Mười như giật mình, kịp ngưng. Mặt chú còn hơi sương. Một trái bom nữa nổ. Vách hầm rung chuyển. Máy bay gầm rít trên đầu.
Xong lượt, mẹ con chúng nó mới chịu kéo nhau chuồn mất.
Trận đó, cả cơ quan anh em không ai sao cả, chỉ trừ có tôi và anh Minh Nối bị sưng hai bên mắt cá chân do té ngã. Bù lại là được một trận cười, cười muốn phát no. Bởi lẽ, lúc quýnh quáng thế nào hay là vì “nước tới chân mới nhảy” mà anh Minh Nối vừa chạy vừa bợ nguyên tấm ván đưa ra trước ngực như bưng nguyên chiếc bàn(!). Nên cứ bị cây cỏ vướng víu, trì kéo giữ lại, bao nhiêu giấy tờ, sách truyện của anh đều rớt lại trắng dã phía sau, đến bộ bình trà cũng bị cây gạt rớt bể, may là cục thuốc gò văng ra còn vướng mắc treo toòng teng trên nhánh ổi, không rớt xuống nước được. Còn chú Mười Hiến, lúc đầu khi chưa có máy bay hát một mình say sưa như bị thôi miên... Và theo cái đà đó đến lúc chạy bom muốn sút be sườn mà miệng chú không quên vẫn cứ hát. Ðến khi nghe em Minh Xuân “nhắc khéo”, vỡ lẽ chú mới chịu ngưng. Tôi cũng vì cái tật nán ngồi viết nên khi “lửa cháy tới vách” mới chịu chạy, thành thử té tuốt xuống ao bèo. Khổ nỗi là hơn 5 trang bản thảo viết tay bài báo xuân của tôi năm đó coi như không còn, đều bị thấm ướt, nhàu nát. Tôi đành vất vả ngồi lại tiếp tục thức trắng mấy đêm liền muốn thụt hai con mắt, bài báo xuân năm đó mới xong!
Cũng từ lần viết báo Tết năm đó mà chúng tôi “có được” cái tên mới, lúc đầu tưởng anh em chọc ghẹo chơi cho vui, ai ngờ kêu riết gần thành danh. Chú Mười Hiến: Mười cúc cu... Anh Minh Nối: Minh ván. Còn tôi: Ba Bèo...!
Tôi không sao quên được kỷ niệm lần viết báo Tết năm ấy./.
Nhà báo Phan Anh Tuấn