Còn mấy ngày nữa là đến ngày giỗ má, nhưng đang giãn cách xã hội chắc không về được, buồn ghê.
Năm rồi cũng vậy, vừa có chuyến công tác từ nơi có dịch Hà Nội, nên âm thầm về giỗ má lúc tối, vội vã thắp hương và viếng mộ rồi đi ngay, không dám tiếp xúc với ai vì bảo vệ sức khoẻ cho mọi người. Nhớ về má ai cũng nhắc đến sự cưng chiều, những nụ hôn và lời ru ngọt ngào suốt thời thơ ấu… còn tôi đứa con thứ mười, ba mất sớm, má phải lo toan nhiều thứ lắm, nên không được hưởng trọn vẹn niềm vui trẻ thơ bên gia đình như mọi người đâu. Nhưng điều đó không có nghĩa sợi dây gắn kết vô hình về tình mẫu tử giữa tôi và má mong manh hơn các bạn đâu nhé. Nhớ về má rất nhiều, qua độ dày ký ức với biết bao câu chuyện luôn quay về…
Vào một ngày không nhớ chính xác, nhưng chắc chắn là vào đầu tháng 5/1975. Khoảng 2 giờ sáng tôi và má khởi hành trên chiếc xuồng be tám, bơi qua Ba Ðình thăm người cậu em họ cùng quê Bến Tre của má.
Khi chiến tranh vừa kết thúc, đi đêm trên kênh cặp bìa rừng này rất sợ tàn quân của chế độ cũ, nhưng cuối cùng cũng vượt qua được quãng đường dài an toàn, đến khi nắng lên thì tới nơi. Cậu Út Thế ở cơ quan của một đơn vị thuộc Quân khu 9, khi gặp cậu mừng lắm vì trong này chỉ có má tôi là người thân duy nhất. Ðang chuẩn bị chuyển đơn vị về Cần Thơ, có một số vật dụng linh tinh không cần xài ở đô thị nữa nên tặng lại cho má con tôi, trong đó chắc quý nhất là cái đèn dầu treo, không biết tên chính xác là gì nhưng lúc đó nghe người ta gọi là đèn Ta Ðăng (thực ra là Toạ Ðăng. Nhưng thôi! Cứ tạm gọi vậy).
Ðèn Ta Ðăng giờ đây không ai sử dụng nữa, nếu ai còn cũng là để kỷ niệm về một thời. Ðèn dầu làm sao so sánh với ánh sáng điện, nhưng với tôi nó là ký ức không thể nào quên.
Tại sao tôi quý cây đèn này, vì thời điểm đó ở nông thôn hay sử dụng đèn dầu "con cóc" và một số đèn nhỏ khác tương tự, khi cần nhiều ánh sáng phải ngồi gần nên hay bị khói đen bám đầy vào mũi, còn đèn Ta Ðăng lớn có bóng và phản quang, treo trên cao có thể sáng cho cả nhà. Có thể so sánh một cách khập khiễng nhưng để các bạn trẻ dễ hiểu lý do tại sao tôi quý nó, là vì khi sử dụng đèn con cóc giống như đi xe hai bánh bị bụi và nắng gió, còn sử dụng đèn Ta Ðăng thì giống như đi xe hơi rất thoải mái vì mát mẻ.
Thật ra cây đèn này tôi có được sử dụng nhiều đâu và đã bể hơn 40 năm rồi nhưng tôi còn nhớ mãi, nhớ đến cả những chi tiết nhỏ nhất, như muốn đèn sáng phải vặn, chỉnh sửa sao cho ống tim đèn thật đều và như vậy mới ít bị khói đen bám vào bóng đèn. Thời kỳ đầu bao cấp cái gì cũng thiếu, đặc biệt loại cần nhất nhưng lại khó mua là dầu lửa để thắp sáng. Ðèn Ta Ðăng treo thời ấy là thuộc loại cao cấp rồi, chỉ thua đèn măng xông thôi. Nhưng vì tốn nhiều dầu nên đèn Ta Ðăng nhà tôi rất ít được sử dụng, lâu ngày đèn bị sét một số phụ kiện. Trong đợt nghỉ hè, sẵn trong nhà có hộp nước sơn nhỏ, sau gần cả buổi cạo, chùi, sơn thì cũng hoàn thành, tất cả các chi tiết đèn được để trên dàn máy may.
Nói dàn máy may cho oai chứ thật ra chỉ là 2 mảnh ván ghép lại đặt trên khung chân máy đã cũ để tạm dùng may vá. Lần đó còn thừa ít nước sơn, tôi ấn tay đậy nắp hộp làm cho cả dàn máy sụp đổ. Thế là bầu thuỷ tinh chứa dầu bể nát, các linh kiện còn lại từ đó chỉ để làm kỷ niệm mà thôi.
Bị kết án "phá” nên má cho trận đòn. Khi “thi hành án xong”, tôi buồn vì bị “hàm oan” thì ít nhưng buồn vì tiếc của nhiều hơn. Má nói đây là vật kỷ niệm, món quà có được từ sự kiện kết thúc chiến tranh nhưng chắc cũng không trách tôi đâu, bởi má biết tôi cũng quý cây đèn giống như má...
Từ năm 1975, xa quê đi học, được hưởng ánh sáng chói chang của đô thành và được học biết bao kiến thức mới, chỉ vào dịp hè mới “tận hưởng” ánh sáng đèn dầu và được tiếp tục những bài học rất đời thường của má. Má tôi không dạy "chữ", chỉ dạy tôi cách “sử dụng chữ” mà thôi. Nhờ ánh sáng đèn dầu của má mà tôi nhìn rõ hơn ánh sáng nguồn điện hôm nay, để không lạc lối trong suốt cuộc hành trình…
"Bớt dịch rồi con sẽ về viếng má"./.
Mai Trâm