Quyết định 63 (QĐ) của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đã ra đời cách đây gần 2 năm. Mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung tại QĐ 65, nhưng chính sách này đi vào đời sống quá chậm. Nguyên nhân là do QĐ 63 với những quy định chưa sát với thực tế đã khiến con đường tiếp cận chính sách chỉ là một khe cửa hẹp mà nông dân rất khó lọt qua.
Khó tiếp cận nguồn vốn từ QĐ 63
Theo QĐ 63 và 65, việc hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông, lâm, thủy sản thông qua các ngân hàng thương mại được thực hiện dưới hai hình thức: cho vay hỗ trợ lãi suất và cho vay theo lãi suất tín dụng đầu tư phát triển. Đối tượng được vay hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch là các tổ chức, cá nhân, gồm: hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất và phục vụ sản xuất; các doanh nghiệp có ký và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản, dịch vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp với nông dân. Mức cho vay tối đa để mua máy móc, thiết bị sản xuất trong nước lên đến 100% giá trị hàng hóa. Khoản vay được hỗ trợ 100% lãi suất vay trong 2 năm đầu và từ năm thứ 3 trở đi được hỗ trợ 50% lãi suất vay.
Phải nói rằng, QĐ 63 và 65 là chính sách tín dụng được nông dân trong tỉnh kỳ vọng như một đòn bẩy cho việc giảm tổn thất sau thu hoạch trong chuỗi sản xuất nông nghiệp. Song, trên thực tế thì nông dân trong tỉnh rất khó, thậm chí không thể tiếp cận nguồn vốn.
![]() |
Trình diễn máy GĐLH hiệu Kubota DC60 của Nhật ở xã Long Thạnh, huyện Vĩnh Lợi. Ảnh: T.Đ |
Ông Thạch Minh Tú (Câu lạc bộ sản xuất lúa giống thuộc xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi) than phiền: “Tôi đã mua máy GĐLH sản xuất trong nước, chỉ sau vài tháng sử dụng đành phải bỏ đi và chuyển chức năng của nó thành máy kéo lúa”. Không chỉ ông Tú mà hầu hết nông dân trong tỉnh đều cho rằng, máy GĐLH sản xuất trong nước (cả máy Trung Quốc) giá rẻ nhưng thiết bị không đồng bộ, trọng lượng máy nặng, rất dễ hư hỏng, không thể làm việc trong điều kiện đất sình lầy. Trong khi máy GĐLH của Nhật mặc dù giá cao nhưng trọng lượng lại rất nhẹ, ít hư và hoạt động tốt ở các đồng đất, mùa vụ khác nhau, cắt được cả lúa đổ ngã, tỷ lệ hao hụt thấp. Và phần lớn nông dân tự mua sắm loại máy này.
Theo thống kê của Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh, Bạc Liêu hiện có 180 máy GĐLH, trong đó có 176 máy do nông dân tự mua. Chỉ có 4 máy được tỉnh hỗ trợ 75 triệu đồng/máy thông qua kinh phí khuyến nông hàng năm. Với số lượng máy nêu trên, chỉ thu hoạch khoảng 20% diện tích canh tác lúa của tỉnh.
Theo ông Vũ Đức Khoan, Phó Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT tỉnh: “Từ khi QĐ 63 ra đời đến nay, chưa có một nông dân nào ở Bạc Liêu được tiếp cận vốn ưu đãi để giảm tổn thất sau thu hoạch. Mới có một vài doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn này. Lý do, nông dân thì chuộng “hàng ngoại”, còn QĐ 63 bắt buộc phải mua “hàng nội” với tỷ lệ nội địa hóa máy móc, thiết bị phải đạt từ 60% trở lên. Do đó, nông dân không còn quan tâm tới chính sách này nữa”.
Ngành NN&PTNT nói gì?
Với 86.000ha đất canh tác lúa hiện nay, nếu muốn thu hoạch bằng máy đạt 70% diện tích, toàn tỉnh cần khoảng 600 - 700 máy GĐLH. Nếu đến năm 2020, mục tiêu thu hoạch lúa bằng máy đạt 100% diện tích canh tác thì Bạc Liêu phải cần từ 900 - 1.000 máy GĐLH.
Còn đánh giá về hiệu quả đầu tư, Sở NN&PTNT khẳng định, thu hoạch lúa bằng máy GĐLH sẽ giảm tổn thất lúa trên 1,87% so với thu hoạch bằng thủ công. Theo tính toán của Sở NN&PTNT, với sản lượng 800.000 tấn lúa/năm, nếu thu hoạch bằng máy GĐLH Kubota thì nông dân cả tỉnh sẽ tăng thu thêm 14.960 tấn lúa. Và với giá lúa bình quân 5 triệu đồng/tấn thì thu nhập của nông dân cả tỉnh sẽ tăng thêm 74,8 tỷ đồng.
Xuất phát từ thực tế trên, Sở NN&PTNT đã kiến nghị UBND tỉnh xin chuyển cơ chế hỗ trợ mua máy GĐLH từ máy “nội” sang máy “ngoại” của Nhật. Tổng số tiền vay cần được ngân hàng hỗ trợ lãi suất là trên 72,5 tỷ đồng với tổng cộng 192 máy GĐLH từ nay đến năm 2015. Tuy nhiên, tỉnh vẫn chưa chấp nhận kiến nghị này. Nghĩa là QĐ 63 và 65 vẫn chưa thể đi vào đời sống của nông dân Bạc Liêu. Và mục tiêu giảm tổn thất sau thu hoạch lúa của tỉnh có lẽ sẽ còn xa vời.
Hữu Duyên