Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh xác định: từ nay đến năm 2015, Bạc Liêu quyết tâm giữ ổn định 55.000ha đất trồng lúa 2 - 3 vụ; diện tích lúa - tôm phấn đấu nâng lên 30.000 - 35.000ha, tăng từ 3.000 - 8.000ha so với thời điểm hiện tại. Như vậy, bằng cách nào để Bạc Liêu đạt được số diện tích này trong lúc chúng ta đang có khá nhiều dự án kinh tế “nhắm” vào đất lúa? Nông dân thì ồ ạt chuyển mục đích sử dụng đất của mình từ trồng lúa sang nuôi tôm. Một bài toán khác cũng đang đặt ra là nếu giữ đất trồng lúa quá nhiều thì liệu đời sống nông dân có khá giàu hơn?
Bài 1: Trồng lúa để đảm bảo an ninh lương thực
Đất trồng lúa là vấn đề được đặc biệt quan tâm vì có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh lương thực, yếu tố sống còn đối với một quốc gia mà lực lượng dân số sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Với Bạc Liêu, trong lúc đất trồng lúa đang thu hẹp dần thì nghề trồng lúa trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Mục tiêu đến năm 2020 và xa hơn nữa, trong số rất nhiều chính sách ưu tiên, việc đảm bảo an ninh lương thực vẫn được tỉnh ưu tiên hàng đầu.
Để đảm bảo an ninh lương thực, tại Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI) vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng một lần nữa khẳng định vị thế quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế và phải kiên quyết giữ bằng được 3,8 triệu héc-ta đất trồng lúa cả nước. Trong đó có 3,2 triệu héc-ta chuyên trồng lúa nước.
Quyết tâm giữ đất trồng lúa!
Ngày 23/2/2012, Chính phủ ban hành Công văn số 23 về phân bổ chỉ tiêu kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia. Trong đó, chỉ tiêu về đất chuyên trồng lúa nước thời kỳ 2012 - 2020 cả nước phải giữ cho được diện tích 3,8 triệu héc-ta. Bạc Liêu được Chính phủ giao phải giữ ổn định 58.910ha đất chuyên trồng lúa từ 2 - 3 vụ/năm. Nếu bao gồm cả đất trồng lúa có kết hợp nuôi trồng các đối tượng khác, đến năm 2020, Bạc Liêu phải giữ cho được 83.000ha. Chính phủ cũng chỉ cho phép Bạc Liêu sử dụng đất lúa vào mục đích xây dựng các khu, cụm công nghiệp… trên diện tích 765ha. Trong định hướng và phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015), Chính phủ cũng nêu rõ quan điểm quản lý chặt chẽ, bảo đảm sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững. Quy hoạch sử dụng đất phải là công cụ quan trọng của Nhà nước thực hiện quyền định đoạt về đất đai, hỗ trợ điều tiết thị trường bất động sản.
Trong chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và thực hiện chỉ tiêu, kế hoạch của Chính phủ, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh xác định: giai đoạn 2011 - 2015, Bạc Liêu quyết tâm giữ ổn định 55.000ha đất trồng lúa 2 - 3 vụ; diện tích lúa - tôm phấn đấu nâng lên 30.000 - 35.000ha, tăng từ 3.000 - 8.000ha so với thời điểm hiện tại. Theo đó, tỉnh sẽ ưu tiên đầu tư các vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung, xây dựng nhiều cánh đồng lúa chất lượng cao, nhiều cánh đồng mẫu lớn, xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao… với mục tiêu cao nhất là không chỉ góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, mà sẽ giúp nền nông nghiệp Bạc Liêu phát triển toàn diện trong vài năm tới.
![]() |
Niềm vui của nông dân. |
![]() |
Nông dân huyện Vĩnh Lợi bán lúa (vụ đông xuân) cho thương lái. Ảnh: T.Đ - P.T.C |
Giữ bằng cách nào?
Các nhà quản lý cho rằng, đất đai không thể “đẻ” thêm, trong khi dân số của tỉnh tăng lên không ngừng. Vì vậy, để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, việc giữ diện tích đất trồng lúa là một tất yếu.
Tuy nhiên, trong 10 năm qua, diện tích đất lúa của tỉnh vẫn liên tục giảm mạnh. Sở NN&PTNT xác nhận: trung bình mỗi năm, Bạc Liêu mất hơn 5.000ha đất trồng lúa. Nếu như thời điểm năm 1997, Bạc Liêu có 110.000ha đất trồng lúa thì hiện tại chỉ còn gần 65.000ha. Trong đó, phần lớn diện tích do nông dân chuyển đổi mục đích sử dụng từ trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản, số khác là do triển khai các dự án kinh tế, các công trình phúc lợi xã hội… Theo đánh giá của Sở NN&PTNT, sự giảm sút đất trồng lúa của tỉnh trong thời gian qua là đáng báo động.
TS. Nguyễn Xuân Khoa, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh, cho rằng: “Còn rất nhiều yếu tố khác tác động tới sản xuất lúa, diện tích đất trồng lúa. Chưa bao giờ nước ta phải trải qua những đợt rét đậm, rét hại như bây giờ. Trong tương lai, diễn biến thời tiết thế nào chưa ai có thể dự báo chính xác. Nhưng mục tiêu an ninh lương thực quốc gia không chỉ trong 20, 30 năm mà phải là 100, 200 năm và lâu hơn nữa”. Nhiều nhà khoa học cảnh báo, với sự giảm sút diện tích đất trồng lúa khá nhanh như hiện nay, sẽ có nguy cơ dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở nông thôn Bạc Liêu gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn sẽ càng xa hơn, áp lực tăng dân số cơ học, tệ nạn xã hội… ở khu vực đô thị cũng sẽ tăng theo.
Để giữ đất trồng lúa của tỉnh như kế hoạch, theo ông Lâm Quyết Thắng, Giám đốc Sở TN-MT: “Sở đang xây dựng quy hoạch sử dụng đất toàn tỉnh giai đoạn 2011 - 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm, giai đoạn 2011 - 2015 chuẩn bị trình UBND tỉnh phê duyệt. Sau khi có bản đồ cụ thể, với số diện tích đất lúa cần được bảo vệ, tỉnh sẽ tổ chức cắm mốc và công bố khu vực bất khả xâm phạm. Chủ tịch UBND cấp xã phải chịu trách nhiệm nếu xảy ra tình trạng sử dụng đất trồng lúa sai mục đích. Các dự án kinh tế tới đây cũng sẽ hạn chế tối đa sử dụng đến đất trồng lúa”.
Người trồng lúa được gì?
Bạc Liêu có gần 50% dân số sống bằng nghề trồng lúa nước, tạo ra sản lượng 850.000 - 900.000 tấn lúa/năm. Không chỉ đảm bảo an ninh lương thực, mỗi năm, tỉnh có hơn một nửa sản lượng cung ứng cho thị trường xuất khẩu. Vậy mà nông dân trồng lúa vẫn nghèo!
Theo một số nhà khoa học, để giữ vững diện tích đất lúa không đơn thuần là bằng mọi cách giữ đất mà phải thực hiện bằng nhiều biện pháp sao cho người trồng lúa làm giàu từ chính cái nghề của mình thì tự họ sẽ giữ đất. Ông Phan Minh Quang, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, nhận xét: “Nguyên nhân chính khiến người trồng lúa vẫn nghèo là do tình trạng sử dụng đất nông nghiệp quá manh mún, phân tán. Điều này làm cản trở việc áp dụng máy móc, thiết bị cơ giới và ảnh hưởng lớn đến việc hạ giá thành sản xuất cũng như nâng cao chất lượng lúa gạo, từ đó làm giảm lợi nhuận của nông dân. Song, bên cạnh đó, cũng phải nói rằng, hạt lúa mà người trồng lúa làm ra hiện nay vẫn quá bấp bênh trong khâu tiêu thụ. Công cụ điều tiết thị trường lúa gạo của Nhà nước đôi lúc vẫn không hiệu quả, dẫn đến điệp khúc “được mùa - mất giá, mất mùa - được giá” diễn ra liên tục, khiến cho đời người trồng lúa vẫn nghèo”.
Theo Niên giám thống kê năm 2008, bình quân một hộ nông dân trong tỉnh chỉ có hơn 5.000m2 đất nông nghiệp. Những hộ có đất sản xuất trên 1ha có thể đạt giá trị sản xuất cao chỉ chiếm khoảng 17%. Với quy mô trên thì khó tính đến chuyện làm nông nghiệp hàng hóa lớn và tính chuyên nghiệp cao để làm giàu.
Còn ông Nguyễn Văn Sánh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển ĐBSCL thì cho rằng, có một nghịch lý là thời gian qua tỉnh nào chỉ trồng lúa thì bị xem là tỉnh nghèo. Nông dân của tỉnh đó đương nhiên cũng nghèo theo. Còn tỉnh nào “công nghiệp hóa” thì sẽ mau giàu hơn. Vì thế, các địa phương đua nhau quy hoạch mở khu, cụm công nghiệp. Không chỉ vậy, người trồng lúa không thể khá giả bằng người trồng cây ăn trái hoặc nuôi trồng thủy sản nên khó mà ép họ phải làm lúa mãi được.
Tuy nhiên, ông Phan Minh Quang, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, khẳng định, chỉ có tích tụ ruộng đất theo kiểu sản xuất hàng hóa lớn, dịch chuyển bớt lao động trồng lúa sang ngành nghề khác và tăng cường đào tạo nghề cho lao động nông thôn thì người trồng lúa mới có cơ hội làm giàu và lao động nông thôn mới cải thiện được thu nhập.
Tấn Đạt
Bài 2: Tiếng nói của người trong cuộc