ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 4-6-25 15:01:39
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ngành lúa gạo ÐBSCL

Mục tiêu 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao

Báo Cà Mau Diện tích trồng lúa ở nước ta hiện nay khoảng 7,1 triệu héc-ta, riêng đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) khoảng 3,8 triệu héc-ta. Trước những thách thức lớn của ngành lúa gạo ÐBSCL trước tình trạng biến đổi khí hậu, Ðề án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ÐBSCL đến năm 2030” được coi là giải pháp phù hợp, khả thi, mở ra hướng đi bền vững cho ngành lúa gạo và gia tăng lợi nhuận cho người nông dân trồng lúa.

Nhận diện thách thức

Ðánh giá về “sức khoẻ” ngành hàng lúa gạo vùng ÐBSCL, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Lê Minh Hoan nhận định: “Biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, lũ lụt thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng lúa gạo, đặc biệt là tại các vùng sản xuất trọng điểm như vùng ÐBSCL. Những điều kiện này không chỉ làm giảm sản lượng thu hoạch mà còn gây khó khăn cho việc bảo quản lúa gạo sau thu hoạch”.

Thực tế, thị trường xuất khẩu gạo đang ngày càng cạnh tranh gay gắt, với sự tham gia mạnh mẽ của các nước xuất khẩu gạo lớn như Thái Lan, Ấn Ðộ; điều này đặt ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc giữ vững thị phần và nâng cao giá trị xuất khẩu.

Với những công việc trước mắt và lâu dài, Bộ NN&PTNT đã phối hợp với Bộ Công thương và cơ quan liên quan trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét thành lập Hội đồng Lúa gạo quốc gia - cơ quan tham mưu về chiến lược, chính sách và xử lý các vấn đề liên quan đến ngành hàng lúa gạo.

Ông Lê Minh Hoan cho rằng, cần tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ việc thu mua, chế biến và bảo quản lúa gạo; bao gồm việc nâng cấp hệ thống kho bãi, trang bị các thiết bị bảo quản hiện đại và mở rộng công suất của các nhà máy chế biến. Ðẩy mạnh việc mở rộng thị trường xuất khẩu, quảng bá thương hiệu gạo Việt Nam, nhất là các thị trường mới như châu Phi, Trung Ðông, châu Âu, Halal.

Lợi nhuận cho nông dân là giá trị cốt lõi trong chiến lược phát triển ngành hàng lúa gạo vùng ÐBSCL. (Trong ảnh: Thu hoạch lúa trên cánh đồng lớn xã Khánh Bình Ðông, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau). Ảnh: HUỲNH LÂM

Lợi nhuận cho nông dân là giá trị cốt lõi trong chiến lược phát triển ngành hàng lúa gạo vùng ÐBSCL. (Trong ảnh: Thu hoạch lúa trên cánh đồng lớn xã Khánh Bình Ðông, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau). Ảnh: HUỲNH LÂM

Ðồng thời, ngành lúa gạo phải nâng cao hiệu quả hợp tác, liên kết sản xuất “4 nhà”, nhất là giữa nông dân và doanh nghiệp, bảo đảm đầu ra ổn định cho sản phẩm lúa gạo. Hoàn thiện chính sách và hỗ trợ kỹ thuật nhằm bảo vệ lợi ích của người nông dân. Cải cách thủ tục hành chính để rút ngắn thời gian xử lý các dự án liên quan đến chế biến và bảo quản lúa gạo, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình đầu tư, sản xuất.

Thay đổi tư duy và hành động

Với Ðề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao tại vùng ÐBSCL, ông Lê Minh Hoan cho biết: “Ðây là đề án mà Chính phủ hết sức kỳ vọng, hoàn toàn khả thi. Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 10/CT-TTg, ngày 2/3/2024, về việc đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu lúa gạo bền vững, minh bạch, hiệu quả trong tình hình mới. Sản lượng lúa năm 2023 đạt 43,5 triệu tấn, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và góp phần quan trọng vào xuất khẩu. Trong đó, sản lượng gạo xuất khẩu gần 8,3 triệu tấn, giá trị xuất khẩu gần 4,8 tỷ USD. Các doanh nghiệp chế biến gạo cũng đã tích cực mở rộng thị trường, ký kết nhiều hợp đồng xuất khẩu với các đối tác mới tại châu Phi, Trung Ðông và châu Âu”.

Nội lực và hướng đi của ngành lúa gạo cũng đã được tăng cường củng cố, định hình thông qua việc đầu tư vào hệ thống kho bãi bảo quản hiện đại và nâng cấp các nhà máy chế biến, giúp nâng cao khả năng bảo quản, chế biến gạo, đảm bảo chất lượng sản phẩm cho cả thị trường nội địa và xuất khẩu.

Việc quản lý thu mua và chế biến lúa gạo đã góp phần quan trọng vào việc ổn định giá cả trên thị trường trong nước. Các biện pháp điều tiết và hỗ trợ nông dân đã giúp hạn chế tình trạng ép giá, đảm bảo người trồng lúa có thu nhập ổn định. Sự ổn định về giá cả cũng giúp doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu dễ dàng hoạch định kế hoạch sản xuất, kinh doanh.

Nông dân Ấp 5, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời sử dụng thiết bị bay không người lái để phun thuốc trừ sâu cho đồng ruộng. Ảnh: TRẦM NGHĨ

Nông dân Ấp 5, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời sử dụng thiết bị bay không người lái để phun thuốc trừ sâu cho đồng ruộng. Ảnh: TRẦM NGHĨ

Bên cạnh đó, các chính sách quản lý, điều phối từ Trung ương đến địa phương đã chú trọng đến việc cân bằng lợi ích giữa người trồng lúa, doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo. Các chính sách hỗ trợ và các biện pháp khuyến khích sản xuất đã giúp người trồng lúa duy trì năng suất cao, có đầu ra ổn định. Ðồng thời, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu được hưởng lợi từ sự hỗ trợ về hạ tầng, chính sách ưu đãi thuế, tín dụng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

“Ðặc biệt, nhằm phát triển ngành lúa gạo bền vững, hiệu quả, thích ứng với biến đổi khí hậu và yêu cầu của thị trường tiêu thụ, Bộ đã trình cấp có thẩm quyền ban hành và phối hợp tổ chức triển khai thực hiện Quyết định số 1490/QÐ-TTg, ngày 27/11/2023, phê duyệt Ðề án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ÐBSCL đến năm 2030” nhằm thúc đẩy xây dựng các vùng chuyên canh lúa tập trung, quy mô lớn, có sự liên kết, hợp tác theo chuỗi giá trị giữa người trồng lúa với hợp tác xã, doanh nghiệp; sản xuất lúa bền vững, giảm lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hoá học, giảm phát thải khí nhà kính tại vùng ÐBSCL”, ông Hoan thông tin thêm./.

 

Phạm Hải Nguyên tổng hợp

 

Bên dòng Maspero

Khi mùa lễ hội Ok Om Bok tưng bừng, dòng sông Maspero cũng khoác lên mình tấm áo rực rỡ, hội tụ cả tinh thần lẫn văn hoá của cộng đồng các dân tộc anh em Kinh - Khmer - Hoa. Không chỉ là nơi diễn ra những cuộc đua ghe Ngo đầy hào hứng, dòng sông này còn là nhịp cầu nối giữa truyền thống, hiện tại và tương lai của vùng đất Sóc Trăng giàu bản sắc văn hoá các dân tộc.

Sức vươn Cù lao Tây

Giữa dòng Tiền Giang hiền hoà, nơi sóng nước mênh mang và đất phù sa màu mỡ, có một vùng đất đang lặng lẽ thay da đổi thịt: Cù lao Tây, thuộc huyện Thanh Bình, tỉnh Ðồng Tháp. Mảnh đất này từng một thời lận đận bởi giao thông trắc trở, kinh tế khó khăn, nhưng hôm nay, nhờ những chủ trương đúng đắn, sự đồng lòng của chính quyền và người dân, Cù lao Tây đã bừng sáng như một đoá sen vươn mình từ bùn lầy, thanh khiết, đầy sức sống.

Vì sự phát triển bền vững của đất Chín Rồng

Trong Báo cáo Kinh tế thường niên vùng đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) vừa được Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố, đã phản ánh thực trạng về một bức tranh “khá xám” của đồng bằng với hàng loạt các thách thức và đặt ta nhiều vấn đề cho phát triển bền vững. Tại sao sự phát triển kinh tế của ÐBSCL tiếp tục “tụt lùi” trong nhiều năm liền và vùng đất chín rồng này rất cần một cuộc cách mạng trong tái cơ cấu lại mô hình tăng trưởng trong huy động nguồn lực, nhất là trong điều kiện các tỉnh, thành phố sẽ được sáp nhập lại với nhau.

Những vùng quê vượt qua nỗi đau

Sau 50 năm kiến thiết xây dựng quê hương, vùng đồng bằng sông Cửu Long còn đó những chiến tích bi thương, oai hùng. Trở lại những địa chỉ năm xưa từng xảy ra các vụ thảm sát tang thương như: TP Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang; xã Trí Phải (huyện Thới Bình), xã Nguyễn Huân (huyện Ðầm Dơi), tỉnh Cà Mau... đều cảm nhận được sự thay đổi lớn lao. Ðó là những vùng quê bừng sáng, đi đầu trong các phong trào ở địa phương.

Nghề dệt của đồng bào Khmer vùng biên giới

Ðồng bào Khmer là 1 trong 54 dân tộc anh em không thể tách rời trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Những năm qua, Ðảng, Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến các dân tộc thiểu số, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, đời sống của đồng bào Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long cải thiện rõ rệt.

Giữ nghề dệt thổ cẩm ở làng Chăm

Trong căn nhà gỗ 3 gian trưng bày hàng thổ cẩm truyền thống của đồng bào Chăm ở ấp Phũm Xoài, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu (tỉnh An Giang), lão Mohamach chậm rãi rót trà. Hơi nóng toả lên, hoà vào không khí tĩnh lặng của ngôi làng. Hôm nay là ngày lễ Ramadan, khách đến thăm vào dịp này không nhiều, nhưng họ muốn tìm hiểu văn hoá, phong tục của đồng bào, nên lão vui vẻ nhận lời.

Ðổi thay đất anh hùng

Mùa này, nắng nhuộm vàng những vườn cây trĩu quả bên bờ Sông Hậu, xuyên qua Cù lao Tân Quy, những con đường thẳng tắp, rợp bóng cây như minh chứng đất Cầu Kè đang khoác lên mình diện mạo mới; một vùng quê trù phú, điểm sáng trong phong trào xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Trà Vinh.

Tinh hoa mặn mà từ biển Bạc Liêu

Nằm ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc, Bạc Liêu từ lâu đã nổi danh với nghề làm muối truyền thống. Những cánh đồng muối trắng xoá trải dài, lấp lánh dưới ánh mặt trời, không chỉ là nguồn sinh kế của người dân địa phương mà còn là biểu tượng văn hoá độc đáo của miền Tây Nam Bộ. Nơi đây được coi là thủ phủ muối khi là một trong những nơi có diện tích sản xuất muối lớn nhất cả nước nằm ở 2 huyện: Hoà Bình và Ðông Hải. Với lịch sử hơn 100 năm hình thành và phát triển, diêm dân nơi đây đã tích luỹ được những kinh nghiệm thực tế và kế thừa nghề làm muối độc đáo qua bao thế hệ.

Muối Bạc Liêu và cơ hội vươn mình

Nếu so với các tỉnh, thành phố trong khu vực Nam Bộ thì Bạc Liêu là vùng đất được khai phá muộn màng. Ðến với vùng đất mới, các bậc tiền nhân Bạc Liêu đã biết khai thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có, tạo ra của cải, vật chất để nuôi sống bản thân và dùng để giao lưu, trao đổi phục vụ cho mục đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống. Từ đó, các ngành, nghề truyền thống ở Bạc Liêu lần lượt ra đời, trong đó một số nghề nổi tiếng như: trồng nhãn, đan đát và làm muối... Hầu hết các nghề này đã tồn tại và phát triển hơn 100 năm nay.

Hương tràm vùng biên

Tháng Giêng, trời biên giới Tây Nam hanh hao nắng. Nước bắt đầu rút nhanh trên các nhánh sông, để lại dòng kênh ven rừng sánh màu nâu đỏ của lá tràm khô, bờ kênh phơi mình trong nắng vàng óng ánh, ửng lên màu vàng cháy của phèn. Phía bên kia tuyến dân cư thưa thớt là vệt rừng tràm khô khát. Vậy là chúng tôi đã lọt thỏm vào khu vực 730 ha rừng tràm do Trung đoàn 30, Sư đoàn 4 quản lý dọc biên giới Tây Nam thuộc địa phận huyện Giang Thành và Hòn Ðất, tỉnh Kiên Giang.