ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 18-10-24 11:21:51
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Thông tư 20 - Từ quy định đến thực tiễn

Báo Cà Mau Thông tư 20/2023/TT-BGDÐT của Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT) có hiệu lực thi hành vào ngày 16/12/2023. Thông tư hướng dẫn về vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông và các trường chuyên biệt công lập, nhằm chuẩn hoá các điều kiện từ cơ sở vật chất, số lượng giáo viên, nhân viên cho công cuộc đổi mới toàn diện theo Chương trình Giáo dục phổ thông mới 2018.

Ngành giáo dục Cà Mau đã có bước triển khai toàn diện, nhìn nhận trực tiếp những khó khăn, thách thức để có định hướng, giải pháp hiệu quả, nâng cao chất lượng giáo dục trong thời gian tới.

Bài 1: Nhìn nhận từ thực tế

Ðến thời điểm này, các khối lớp đều học theo chương trình phổ thông mới 2018, do vậy, Thông tư 20/2023/TT-BGDÐT (sau đây gọi tắt là Thông tư 20) được áp dụng nhằm “soi chiếu” lại những thuận lợi, khó khăn của ngành giáo dục, trong đó có tỉnh Cà Mau. Ðể đưa Thông tư 20 vào thực tiễn, ngành giáo dục đã linh hoạt rà soát thực trạng địa phương.

Năm học 2024-2025, toàn tỉnh Cà Mau có 469 trường công lập (mầm non 119 trường, tiểu học 204 trường, THCS 112 trường và 34 trường trực thuộc Sở GD&ÐT), so với năm học 2023-2024 dự kiến giảm 9 trường (mầm non 1, tiểu học 7, THCS 1).

Khó khăn trường kiên cố hoá đã... lâu

Số trường phổ thông được chia theo vùng như sau: Vùng 1 có 130 trường (tiểu học 75, THCS 44, THPT 11); không có trường thuộc vùng 2; vùng 3 có 217 trường (tiểu học 129, THCS 68, THPT 20). Trường chuyên biệt: 3 trường. Tổng số học sinh toàn ngành năm học 2024-2025 là 238.794 học sinh, bố trí khoảng 7.055 lớp học. Tổng số viên chức hiện có 14.690 người. Số người làm việc được giao: 15.443 người. Số được giao chưa tuyển dụng đến tháng 7/2024 có 753 người.

Ðể chủ động khi rà soát theo Thông tư 20, ngành giáo dục đã phối hợp với UBND các huyện, TP Cà Mau, Sở Nội vụ và các đơn vị có liên quan tổ chức triển khai, hướng dẫn đến các cơ sở giáo dục trong toàn tỉnh đầy đủ, kịp thời.

Ông Lê Hoàng Dự, Phó giám đốc Sở GD&ÐT Cà Mau,  cho rằng: “Thực tế cho thấy, nhiều ngôi trường trên địa bàn tỉnh đã kiên cố hoá nhiều năm nay, do vậy, diện tích phòng học khi áp dụng còn gặp khó khăn, đặc biệt là những đơn vị trường học vùng 1 và vùng 3. Chính vì lẽ đó, cuộc họp vừa qua chúng tôi đã báo cáo chi tiết, cụ thể những thuận lợi, khó khăn, tránh tình trạng bị động, ảnh hưởng đến công tác dạy và học”.

Trường THCS Phú Hưng, huyện Cái Nước, có diện tích các phòng học nhỏ hẹp, ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.

Trường THCS Phú Hưng, huyện Cái Nước, có diện tích các phòng học nhỏ hẹp, ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.

Phòng học được quy định ứng với số lượng học sinh trong lớp học phân theo từng vùng, điều này đã tạo nên sức ép cho ngành giáo dục, làm sao không để xảy ra thừa, thiếu giáo viên. Năm học này, qua rà soát trên địa bàn tỉnh, việc bố trí số học sinh/lớp tại các huyện, xã (đặc biệt là các điểm trường lẻ) thực tế số học sinh/lớp bố trí thấp hơn so với bình quân theo quy định vùng tại Thông tư 20. Tại Báo cáo số 2665/SGDÐT-TCCB, của Sở GD&ÐT ngày 16/8/2024, cũng nêu rõ nguyên nhân do đặc thù tỉnh Cà Mau là vùng sông nước, nhiều huyện có địa bàn rộng, dân cư sống không tập trung, điều kiện đi lại còn khó khăn, hiện còn khoảng 309 điểm trường lẻ (mầm non 146 điểm lẻ, tiểu học có 153 điểm lẻ, THCS có 10 điểm lẻ, so với năm học 2023-2024 dự kiến xoá 6 điểm lẻ).

Cơ sở vật chất trường học được xây dựng qua nhiều giai đoạn khác nhau, thực trạng hiện nay hầu hết phòng học có diện tích khác nhau (36 m2, 42 m2, 48 m2, 54 m2, 56 m2, 68 m2), diện tích phòng học cấp tiểu học từ 36-54 m2, bình quân 45 m2/phòng (để đảm bảo điều kiện đạt chuẩn quốc gia thì chỉ có khoảng 33 học sinh/lớp). Diện tích phòng học cấp THCS, THPT đều từ 42-68 m2, bình quân 55 m2/phòng (để đảm bảo điều kiện đạt chuẩn quốc gia thì chỉ có khoảng 37 học sinh/lớp).

Thực tế nhiều phòng học được kiên cố hóa nhiều năm nay nên khi áp dụng số học sinh theo vùng sẽ gặp nhiều khó khăn khi thực hiện (Ảnh chụp tại trường THCS Phú Hưng, huyện Cái Nước).

Số chỗ ngồi trong lớp học bố trí tối đa khoảng 40 học sinh, việc bố trí 45 học sinh/lớp đối với cấp THCS và THPT thuộc vùng 3 theo quy định Thông tư 20 ở các cơ sở giáo dục gặp khó khăn do một số nơi phòng học nhỏ hẹp, nếu kê thêm bàn, học sinh sẽ ngồi sát bục giảng, ảnh hưởng sức khoẻ và chất lượng giáo dục.

Bất cập khi chia lớp

Theo báo cáo của Sở GD&ÐT, Khoản 3, Ðiều 3, Thông tư 20, quy định, việc xác định số lượng học sinh/lớp được tính cụ thể theo từng cơ sở giáo dục, không xác định theo đơn vị hành chính cấp xã, huyện, tỉnh. Ðối chiếu với thực tế tại các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh là chưa phù hợp, vì khi chia lớp thì các trường căn cứ số học sinh của từng khối, không thể chia số lớp theo toàn bộ số học sinh của toàn trường, cũng không thể ghép số học sinh sau khi đã chia bình quân còn dư ra của mỗi khối lớp để bố trí thành 1 lớp được.

Một số điểm lẻ cấp tiểu học mỗi khối chỉ có 1 lớp, số học sinh ít không đủ để bố trí 1 lớp đủ số lượng học sinh theo vùng (vùng 1 bố trí 25 học sinh/lớp, vùng 3 bố trí 35 học sinh/lớp), không thể ghép lớp do chương trình khác nhau, điểm lẻ xa điểm chính nên địa phương vẫn phải duy trì để tạo điều kiện thuận tiện cho học sinh đến trường.

Ông Nguyễn Minh Phụng, Trưởng phòng GD&ÐT huyện Cái Nước, cho rằng: “Thông tư 20 quy định chi tiết từng vùng số lượng học sinh ra sao, giáo viên phù hợp như thế nào, đó cũng là định hướng thuận lợi, khi không cào bằng quy định định mức giáo viên giữa vùng này, vùng kia. Tuy nhiên, chính điều này làm cho địa phương vướng phải khó khăn. Thực tế nhiều điểm trường học đã được kiên cố hoá nhiều năm nay, diện tích phòng học cũng vì thế mà đủ các kích cỡ. Do đó, đơn vị cần dựa vào số học sinh/lớp mới có thể bố trí vị trí việc làm cho giáo viên, nhân viên”.

Vấn đề sắp xếp số lượng học sinh/lớp theo vùng cũng ảnh hưởng đến việc bố trí giáo viên, nhân viên, tại một đơn vị trường học. (Ảnh minh hoạ)

Vấn đề sắp xếp số lượng học sinh/lớp theo vùng cũng ảnh hưởng đến việc bố trí giáo viên, nhân viên, tại một đơn vị trường học. (Ảnh minh hoạ)

Bên cạnh đó, theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, đối với cấp THPT gồm các môn học bắt buộc và các môn học lựa chọn, các trường xây dựng tổ hợp các môn học từ 3 nhóm môn học và chuyên đề học tập, học sinh đăng ký theo nguyện vọng và năng lực của mình. Do đó, biên chế số học sinh/lớp ở cấp THPT phải bố trí theo tổ hợp môn mà học sinh đăng ký theo từng khối lớp, do đặc thù từng khối lớp có các tổ hợp môn học khác nhau nên không thể dồn lớp để đảm bảo bình quân 45 học sinh/lớp, cho dù không đủ 45 học sinh vẫn phải bố trí 1 lớp và bố trí đủ giáo viên các môn học để đảm bảo công tác giảng dạy.

“Qua rà soát thực trạng ở các địa phương, đối với những trường thuộc vùng 1 nếu bố trí số học sinh/lớp theo Thông tư 20 sẽ tăng thêm số lớp, thiếu phòng học, thiếu giáo viên; đối với các trường thuộc vùng 3 sẽ giảm số lớp, thừa giáo viên (thừa giáo viên cấp tiểu học và THCS)”, ông Lê Hoàng Dự cho biết.


Khoản 2, Ðiều 3, Thông tư 20/2023/TT-BGDÐT, ngày 30/10/2023 nêu rõ: Số lượng học sinh/lớp theo vùng để làm căn cứ giao hoặc phê duyệt số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục. Vùng 1: bình quân 25 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; bình quân 35 học sinh/lớp đối với cấp THCS, THPT. Vùng 2: bình quân 30 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; bình quân 40 học sinh/lớp đối với cấp THCS, THPT. Vùng 3: bình quân 35 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; bình quân 45 học sinh/lớp đối với cấp THCS, THPT.


 

Hằng My

Bài cuối: Loay hoay tìm giải pháp

 

Nan giải bài toán “ngọt hoá” - Bài cuối: Cấp thiết nhu cầu quy hoạch

"Chúng ta đang đối mặt những thách thức khách quan lẫn chủ quan. Ðây là vùng đất sản xuất phụ thuộc nước trời; trong 10 năm trở lại đây, có sự biến động bất thường của thời tiết, 3 lần hạn hán nghiêm trọng, dẫn đến nhiều hệ luỵ sạt lở, sụt lún, ảnh hưởng nhiều công trình, sản xuất, đi lại trong vùng ngọt hoá. Mặc dù hệ thống thuỷ lợi với đê bao khép kín nhưng đã được đầu tư cách đây hơn 20 năm, nên việc điều tiết nước trước biến đổi khí hậu đã thay đổi. Do đó, chúng ta cần phải có tính toán, rà soát lại quy hoạch, khắc phục những tồn tại cũng như đáp ứng những nhu cầu cấp thiết mới, để đảm bảo sản xuất vùng ngọt hoá", đó là nhận định, đề xuất của PGS.TS Tô Văn Thanh, Phó viện trưởng Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam, đối với vùng ngọt hoá tỉnh Cà Mau.

Nan giải bài toán “ngọt hoá”

Cà Mau là tỉnh ven biển duy nhất có ba mặt giáp biển và cũng là tỉnh duy nhất trong khu vực không có nước ngọt bổ sung từ hệ thống sông Mê Kông. Năm 2002, UBND tỉnh Cà Mau quyết định phê duyệt quy hoạch vùng Bắc Cà Mau là vùng ngọt hoá. Vùng này được chia làm 5 tiểu vùng, trong đó, Tiểu vùng III (thuộc huyện Trần Văn Thời) và phần lớn của Tiểu vùng II (huyện U Minh) hiện còn giữ được ngọt hoá.

Đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc - Chính sách có, khó khâu nào? - Bài cuối: Tìm lời giải tối ưu

Chăm lo toàn diện đời sống đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) là công việc quan trọng xuyên suốt được Ðảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm; thể chế hoá bằng chủ trương, chính sách, pháp luật. Bằng quyết tâm chính trị cao độ và sức mạnh đồng thuận của cả cộng đồng, tỉnh Cà Mau đã cụ thể hoá các chính sách về đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, lao động DTTS bằng sự linh hoạt, phù hợp với nhiều cách làm hay, hiệu quả.

Đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc - Chính sách có, khó khâu nào? - Bài 2: Góc nhìn thực tiễn

Ðồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) tại Cà Mau sống tập trung nhiều tại khu vực nông thôn, với hơn 9 ngàn hộ, chiếm trên 76% tổng số hộ DTTS của tỉnh. Phần lớn địa bàn mà đồng bào DTTS sinh sống thuộc các xã vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động đồng bào DTTS tại địa phương trong thực tế vẫn còn là bài toán với nhiều biến số.

Đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc - Chính sách có, khó khâu nào?

Ðào tạo nghề, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn, lao động người dân tộc thiểu số (DTTS) để thoát nghèo, cải thiện toàn diện cuộc sống gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS là chủ trương, chính sách ưu việt, nhân văn của Ðảng, Nhà nước, được triển khai thực hiện bằng nhiều nguồn lực, đa dạng các hình thức hỗ trợ.

Ðiều động, luân chuyển cán bộ - “Luyện vàng, giũa ngọc” - Bài cuối: Ðúng quy định, sát thực tiễn

Công tác cán bộ là công việc hệ trọng của Ðảng ta, nhưng cũng là khâu khó, cần phải được tiến hành đúng mục đích, yêu cầu, nguyên tắc; trong tổ chức thực hiện đảm bảo quy trình chặt chẽ, dân chủ, công khai, minh bạch. Ðồng chí Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh, khẳng định: “Ðối tượng, chức danh bố trí trong điều động, luân chuyển tại Cà Mau đảm bảo đúng Quy định số 65-QÐ/TW”.

Ðiều động, luân chuyển cán bộ - “Luyện vàng, giũa ngọc” - Bài 2: Khoá đào tạo đặc biệt

Quy định của Ðảng về thời gian luân chuyển, điều động cán bộ từ 3 năm trở lên. Ðây được coi là khoá đào tạo cán bộ đặc biệt, là môi trường “luyện vàng, giũa ngọc”, để lựa chọn những người đủ đức, đủ tài, ngang tầm với nhiệm vụ được giao phó. Bởi khi tiếp cận thực tiễn, sâu sát với đời sống Nhân dân, mỗi cán bộ sẽ tích luỹ, bồi tụ cho bản thân rất nhiều điều bổ ích; những bài học kinh nghiệm thiết thân, quý giá. Từ đó mang lại những giá trị cống hiến thực chất, thực sự cho Ðảng, cho Nhân dân.

Ðiều động, luân chuyển cán bộ - “Luyện vàng, giũa ngọc”

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, trọng yếu, thường xuyên, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng; tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Trong đó, xây dựng Ðảng về tổ chức, đặc biệt là công tác cán bộ, được Ðảng ta xác định là vấn đề “then chốt của then chốt”.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...