ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 4-6-25 11:48:37
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Từ cái hầm đến chiếc máy đánh chữ

Báo Cà Mau Mấy chuyến đi tìm nơi cơ quan Tỉnh uỷ đóng trong những năm chống Mỹ như: Mà Ca, Mỹ Thành (xã Phú Thuận, huyện Phú Tân), Ðất Cháy, Vịnh Dừa, Công Ðiền (xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời)... Bảo tàng tỉnh đã xác định được những “địa chỉ đỏ” quý giá. Riêng tôi, được là nhân chứng đối với đất và người những nơi ấy là niềm vui, vì được đền đáp một phần nhỏ công ơn của bà con đã một thời cưu mang, sống chết với mình.

Mấy chuyến đi tìm nơi cơ quan Tỉnh uỷ đóng trong những năm chống Mỹ như: Mà Ca, Mỹ Thành (xã Phú Thuận, huyện Phú Tân), Ðất Cháy, Vịnh Dừa, Công Ðiền (xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời)... Bảo tàng tỉnh đã xác định được những “địa chỉ đỏ” quý giá. Riêng tôi, được là nhân chứng đối với đất và người những nơi ấy là niềm vui, vì được đền đáp một phần nhỏ công ơn của bà con đã một thời cưu mang, sống chết với mình.
Bùi ngùi thắp nén tâm nhang tưởng nhớ cô bác, anh chị quá cố, qua di ảnh tôi dò dẫm tìm lại những nét thân quen. Cảm động, chỉ nghe tên người cũ, các em, cháu chưa một lần gặp mặt vẫn như đã thân thiết tự hồi nào. Bữa cơm bất ngờ có cả tôm luộc, canh chua cá ngát và nửa chai rượu trắng. Khách, chủ toàn nhắc chuyện cũ. Chỉ tiếc, không thể nào gặp được con đường đất nhỏ, những vườn dừa trái già, trái non quấn quýt bên nhau; mái nhà có cây rơm cạnh sân lúa; không thấy được nhân vật "chiều chiều vịt lội kêu chiều..."; biền biệt con rạch bông súng điểm trắng hai bên mé... và dường như nắng đã rát, mưa cũng trắng trời hơn. Cảnh quan đã thay đổi đến không ngờ, cuộc sống đã tiến về phía trước rất xa.

Tác giả (ông Nguyễn Thái Thuận, nguyên cán bộ Văn phòng Tỉnh uỷ ) xúc động khi gặp lại chiếc máy đánh chữ hiệu TIPPA - chiếc máy ông đã sử dụng từ những năm 1960 khi mới về văn phòng Tỉnh uỷ - tại Bảo tàng tỉnh. Ảnh HUỲNH THU THẢO

Ở nhà anh Bào Văn Hùng, gần kênh Chống Mỹ, một cái hầm vuông bằng bê tông cốt thép, mỗi cạnh hơn một mét để làm hầm tránh phi pháo cho mấy lượt Bí thư Tỉnh uỷ, có cả Tư lệnh Quân khu 9 Ðồng Văn Cống, đã được đào lên để phía sau nhà. Ở gia đình ông Nguyễn Văn Trí, trong kênh Năm Thâu, gần Rạch Bần, 2 cái lu tròn bằng xi măng làm hầm tránh bom cho Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Văn Ðáng (Tư Hườn) cũng được moi lên dùng chứa nước. Ðược 2 gia chủ đồng thuận, nay mai Bảo tàng tỉnh sẽ chở về làm chứng tích. Mỗi bước tìm lại người cũ, dấu cũ, trong tôi lại cồn cào về một vật chứng của riêng mình, nó không to tát, nặng nề như cái hầm, cái lu, nhưng lại gắn bó gần ngót ba ngàn ngày với mình, đó là chiếc máy đánh chữ.

Nhận nhiệm vụ ở Văn phòng Tỉnh uỷ vào cuối năm 1960, không lâu, tôi nhận luôn chiếc máy chữ hiệu TIPPA nhỏ gọn, nặng chừng hơn 3 kg, nhưng hiệu suất mỗi tấp có thể lên đến 10 bản. Nó là chiến lợi phẩm trong trận ta đột nhập vào cơ quan hội đồng xã của địch trên tuyến Rau Dừa - Cái Nước. 5 năm gắn bó với nó, thông qua 10 ngón tay, tôi không nhớ có mấy ngàn trang tài liệu đã ra đời, có bao nhiêu công văn, thư từ luôn kèm theo 2 từ “hoả tốc”. Có lần, tôi cõng nó trên lưng suốt 3 đêm liền trong cuộc hành quân bộ ngót trăm ki-lô-mét từ Khâu Bè (Phú Mỹ cũ) đến Tân Bình - Tân Ðức (Ðầm Dơi). Do chiếc máy nhẹ nên trong bòng của tôi còn chèn thêm mấy gram giấy pơ-luya, mấy hộp giấy than đủ đè nặng trên đôi vai, vòng vo trên từng cây số.

Chỉ có nhớ thôi, không đủ. Vào một chiều tháng Tư, cái tháng mà nhiều người có mặt trong giờ phút cuối của cuộc chiến luôn cất giữ nhiều kỷ niệm, bản thân tôi cũng tung hứng với một số bài ký và thơ về thời khắc lịch sử đó, đã thôi thúc tôi tìm đến Bảo tàng tỉnh để gặp cho được chiếc máy ấy. Người sưu tầm, gìn giữ hiện vật vừa đặt nó lên bàn thì mắt tôi như giãn ra, cảm xúc vỡ oà. Bạn bè bằng xương bằng thịt đã lần lượt ra đi, chiếc máy không nói với tôi điều gì nhưng sao mà thân thiết, vương vấn, đồng điệu như người thân xa nhau tưởng không có ngày gặp lại. Tôi và chiếc máy đang thổn thức, lắng đọng, rung rung cung bậc. Tôi muốn ôm nó vào lòng như ngày nào cõng nó trên lưng.

Hơn 60 năm, từ chàng trai năng động, sức vóc, tôi bước vào tuổi tám mươi lăm, răng long, chân yếu, thời gian hoài niệm tìm kiếm kỷ niệm cũng không còn dài, mỗi bước tới là mỗi bước về miền ký ức. Chiếc máy tôi tìm cũng chẳng còn lành lặn, khi gõ vào bàn phím, con chữ dính chặt vào ru lô, chứng tỏ các lò xo của nó đã bung ra. Các chân con chữ đã rỉ sét, cuộn ruy-băng cũng đã về với đất tự hồi nào. Cần gạt cũng bị liệt, cái nắp đậy bị nứt mấy đường. Một màu xanh ngày nào nay đã vàng úa...

5 năm, nó với tôi như hình với bóng. Ban ngày đã đành, nhiều khi còn tí tách cả đêm trong mùng và ngọn đèn cầy. Ðộ chừng 2-3 tháng phải tháo ra dùng cọ mềm lau bụi, tắm xăng, vô dầu. Nhiệm vụ bất biến của nó là các bộ phận phải gắn kết đồng bộ. Sản phẩm là những dòng chữ, những trang công văn, thư từ sạch sẽ, dễ đọc. Thoát khỏi làm công cụ của chế độ tay sai bán nước, nó trở về phục vụ cách mạng thông qua những người bất chấp gian khổ, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, thống nhất đất nước. Sau tôi là Phạm Thạnh Trị, và sau nữa là ai? Có điều, chắc chắn nó đã có mặt trên chiếc vỏ lãi đưa đoàn cán bộ Văn phòng Tỉnh uỷ ra tiếp quản tỉnh lỵ Cà Mau vào ngày 1/5/1975.

Ðối diện với chiếc máy, tôi đã là người toại nguyện, không còn trăn trở kiếm tìm. Giờ này sao nó lặng thinh, tôi thì đa cảm, dâng trào xúc động. Với Trần Thị Thanh Tuyền, cán bộ bảo tàng nhiệt tình đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi gặp được chiếc máy, đáp lại tôi đã cung cấp khá đầy đủ lý lịch của nó để nó trở thành chứng tích biết nói. Giữa tôi và chiếc máy dù là 2 thế giới khác nhau nhưng đều có sự nương tựa qua lại. 5 năm bên nó, tôi từng bước nên người; ngược lại, bên tôi và những người sau đó mà nó vinh dự được làm chứng tích ở bảo tàng. Cuộc chạy đua với thời gian và quy luật sinh tồn chắc chắn tôi là người thua cuộc. Thay tôi, nó nói với thế hệ hôm nay và mai sau thế nào là chiến tranh. Có lúc, người trong cuộc còn lại phải nén lòng: Thôi, ngày ấy đã lùi xa...

 

Nguyễn Thái Thuận

Liên kết hữu ích

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.