Mấy chuyến đi tìm nơi cơ quan Tỉnh uỷ đóng trong những năm chống Mỹ như: Mà Ca, Mỹ Thành (xã Phú Thuận, huyện Phú Tân), Ðất Cháy, Vịnh Dừa, Công Ðiền (xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời)... Bảo tàng tỉnh đã xác định được những “địa chỉ đỏ” quý giá. Riêng tôi, được là nhân chứng đối với đất và người những nơi ấy là niềm vui, vì được đền đáp một phần nhỏ công ơn của bà con đã một thời cưu mang, sống chết với mình.
- Phụ nữ Cà Mau trong chiến thắng Ðầm Dơi - Cái Nước - Chà Là
- Trận dánh bao vây bức rút Chi khu Năm Căn năm 1968
- Ký ức về cuộc chiến bảo vệ biên giới giúp nước bạn Campuchia
- Tìm về dấu cũ
Mấy chuyến đi tìm nơi cơ quan Tỉnh uỷ đóng trong những năm chống Mỹ như: Mà Ca, Mỹ Thành (xã Phú Thuận, huyện Phú Tân), Ðất Cháy, Vịnh Dừa, Công Ðiền (xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời)... Bảo tàng tỉnh đã xác định được những “địa chỉ đỏ” quý giá. Riêng tôi, được là nhân chứng đối với đất và người những nơi ấy là niềm vui, vì được đền đáp một phần nhỏ công ơn của bà con đã một thời cưu mang, sống chết với mình.
Bùi ngùi thắp nén tâm nhang tưởng nhớ cô bác, anh chị quá cố, qua di ảnh tôi dò dẫm tìm lại những nét thân quen. Cảm động, chỉ nghe tên người cũ, các em, cháu chưa một lần gặp mặt vẫn như đã thân thiết tự hồi nào. Bữa cơm bất ngờ có cả tôm luộc, canh chua cá ngát và nửa chai rượu trắng. Khách, chủ toàn nhắc chuyện cũ. Chỉ tiếc, không thể nào gặp được con đường đất nhỏ, những vườn dừa trái già, trái non quấn quýt bên nhau; mái nhà có cây rơm cạnh sân lúa; không thấy được nhân vật "chiều chiều vịt lội kêu chiều..."; biền biệt con rạch bông súng điểm trắng hai bên mé... và dường như nắng đã rát, mưa cũng trắng trời hơn. Cảnh quan đã thay đổi đến không ngờ, cuộc sống đã tiến về phía trước rất xa.
Tác giả (ông Nguyễn Thái Thuận, nguyên cán bộ Văn phòng Tỉnh uỷ ) xúc động khi gặp lại chiếc máy đánh chữ hiệu TIPPA - chiếc máy ông đã sử dụng từ những năm 1960 khi mới về văn phòng Tỉnh uỷ - tại Bảo tàng tỉnh. Ảnh HUỲNH THU THẢO
Ở nhà anh Bào Văn Hùng, gần kênh Chống Mỹ, một cái hầm vuông bằng bê tông cốt thép, mỗi cạnh hơn một mét để làm hầm tránh phi pháo cho mấy lượt Bí thư Tỉnh uỷ, có cả Tư lệnh Quân khu 9 Ðồng Văn Cống, đã được đào lên để phía sau nhà. Ở gia đình ông Nguyễn Văn Trí, trong kênh Năm Thâu, gần Rạch Bần, 2 cái lu tròn bằng xi măng làm hầm tránh bom cho Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Văn Ðáng (Tư Hườn) cũng được moi lên dùng chứa nước. Ðược 2 gia chủ đồng thuận, nay mai Bảo tàng tỉnh sẽ chở về làm chứng tích. Mỗi bước tìm lại người cũ, dấu cũ, trong tôi lại cồn cào về một vật chứng của riêng mình, nó không to tát, nặng nề như cái hầm, cái lu, nhưng lại gắn bó gần ngót ba ngàn ngày với mình, đó là chiếc máy đánh chữ.
Nhận nhiệm vụ ở Văn phòng Tỉnh uỷ vào cuối năm 1960, không lâu, tôi nhận luôn chiếc máy chữ hiệu TIPPA nhỏ gọn, nặng chừng hơn 3 kg, nhưng hiệu suất mỗi tấp có thể lên đến 10 bản. Nó là chiến lợi phẩm trong trận ta đột nhập vào cơ quan hội đồng xã của địch trên tuyến Rau Dừa - Cái Nước. 5 năm gắn bó với nó, thông qua 10 ngón tay, tôi không nhớ có mấy ngàn trang tài liệu đã ra đời, có bao nhiêu công văn, thư từ luôn kèm theo 2 từ “hoả tốc”. Có lần, tôi cõng nó trên lưng suốt 3 đêm liền trong cuộc hành quân bộ ngót trăm ki-lô-mét từ Khâu Bè (Phú Mỹ cũ) đến Tân Bình - Tân Ðức (Ðầm Dơi). Do chiếc máy nhẹ nên trong bòng của tôi còn chèn thêm mấy gram giấy pơ-luya, mấy hộp giấy than đủ đè nặng trên đôi vai, vòng vo trên từng cây số.
Chỉ có nhớ thôi, không đủ. Vào một chiều tháng Tư, cái tháng mà nhiều người có mặt trong giờ phút cuối của cuộc chiến luôn cất giữ nhiều kỷ niệm, bản thân tôi cũng tung hứng với một số bài ký và thơ về thời khắc lịch sử đó, đã thôi thúc tôi tìm đến Bảo tàng tỉnh để gặp cho được chiếc máy ấy. Người sưu tầm, gìn giữ hiện vật vừa đặt nó lên bàn thì mắt tôi như giãn ra, cảm xúc vỡ oà. Bạn bè bằng xương bằng thịt đã lần lượt ra đi, chiếc máy không nói với tôi điều gì nhưng sao mà thân thiết, vương vấn, đồng điệu như người thân xa nhau tưởng không có ngày gặp lại. Tôi và chiếc máy đang thổn thức, lắng đọng, rung rung cung bậc. Tôi muốn ôm nó vào lòng như ngày nào cõng nó trên lưng.
Hơn 60 năm, từ chàng trai năng động, sức vóc, tôi bước vào tuổi tám mươi lăm, răng long, chân yếu, thời gian hoài niệm tìm kiếm kỷ niệm cũng không còn dài, mỗi bước tới là mỗi bước về miền ký ức. Chiếc máy tôi tìm cũng chẳng còn lành lặn, khi gõ vào bàn phím, con chữ dính chặt vào ru lô, chứng tỏ các lò xo của nó đã bung ra. Các chân con chữ đã rỉ sét, cuộn ruy-băng cũng đã về với đất tự hồi nào. Cần gạt cũng bị liệt, cái nắp đậy bị nứt mấy đường. Một màu xanh ngày nào nay đã vàng úa...
5 năm, nó với tôi như hình với bóng. Ban ngày đã đành, nhiều khi còn tí tách cả đêm trong mùng và ngọn đèn cầy. Ðộ chừng 2-3 tháng phải tháo ra dùng cọ mềm lau bụi, tắm xăng, vô dầu. Nhiệm vụ bất biến của nó là các bộ phận phải gắn kết đồng bộ. Sản phẩm là những dòng chữ, những trang công văn, thư từ sạch sẽ, dễ đọc. Thoát khỏi làm công cụ của chế độ tay sai bán nước, nó trở về phục vụ cách mạng thông qua những người bất chấp gian khổ, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, thống nhất đất nước. Sau tôi là Phạm Thạnh Trị, và sau nữa là ai? Có điều, chắc chắn nó đã có mặt trên chiếc vỏ lãi đưa đoàn cán bộ Văn phòng Tỉnh uỷ ra tiếp quản tỉnh lỵ Cà Mau vào ngày 1/5/1975.
Ðối diện với chiếc máy, tôi đã là người toại nguyện, không còn trăn trở kiếm tìm. Giờ này sao nó lặng thinh, tôi thì đa cảm, dâng trào xúc động. Với Trần Thị Thanh Tuyền, cán bộ bảo tàng nhiệt tình đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi gặp được chiếc máy, đáp lại tôi đã cung cấp khá đầy đủ lý lịch của nó để nó trở thành chứng tích biết nói. Giữa tôi và chiếc máy dù là 2 thế giới khác nhau nhưng đều có sự nương tựa qua lại. 5 năm bên nó, tôi từng bước nên người; ngược lại, bên tôi và những người sau đó mà nó vinh dự được làm chứng tích ở bảo tàng. Cuộc chạy đua với thời gian và quy luật sinh tồn chắc chắn tôi là người thua cuộc. Thay tôi, nó nói với thế hệ hôm nay và mai sau thế nào là chiến tranh. Có lúc, người trong cuộc còn lại phải nén lòng: Thôi, ngày ấy đã lùi xa...
Nguyễn Thái Thuận