ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 25-8-25 14:17:54
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Vẹn nguyên ký ức

Báo Cà Mau (CMO) Những ngày tháng Tư lịch sử, tôi về thăm vùng đất Hưng Mỹ anh hùng. Dọc bên đường Quốc lộ 1, từng khóm bồn bồn nở bông trắng muốt. Từ chợ Rau Dừa, quẹo vô một đoạn, tôi ghé thăm Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Phạm Thị Bay.

Anh hùng LLVTND Phạm Thị Bay (giữa) bên đồng đội. Bà đã sống, chiến đấu và dành cả cuộc đời cho lý tưởng: phụng sự Đảng, phụng sự Nhân dân. Ảnh: Hữu Khả

“42 năm rồi còn gì, nhưng không khí giải phóng Chi khu Cái Nước làm sao cô quên được. Cái Nước giải phóng, Cà Mau giải phóng, miền Nam giải phóng, mấy chục năm kháng chiến chỉ mong chờ giây phút này”, cô Ba Bay tâm sự. Cũng thời điểm này của 42 năm về trước, cả đất nước hưởng niềm vui trọn vẹn.

Nữ Bí thư giải phóng Cái Nước

Năm 1973, nữ Bí thư xã Hưng Mỹ Phạm Thị Bay nhận quyết định điều chuyển về làm Bí thư xã Tân Hưng Đông. Hơn 30 tuổi, cô Ba Bay trong thời gian ở Hưng Mỹ đã bức rút 9 đồn trong giai đoạn Mỹ - Nguỵ bình định ác liệt. Cô Ba nhớ lại: “Hưng Mỹ mấy trăm ngày đánh nhau với giặc. Mà thiệt ngộ, mình chỉ có du kích, còn giặc toàn quân chủ lực. Hưng Mỹ cũng nhận được viện trợ, nhưng càng viện trợ, giặc càng đánh ác”.

Tân Hưng Đông với Chi khu Cái Nước, giặc tập trung đồn bót, lô cốt và hoả lực trang bị “tới răng”. Nữ Bí thư về gặp ngay mấy câu dè chừng: “Lãnh đạo là nữ, nhỏ xíu con, hổng biết làm được gì không?”. Về chuyện này, cô Ba cho biết: “Không phải chỉ anh em ở xã đâu, cả mấy anh, mấy chú trên huyện cũng còn băn khoăn”. 

Giặc ở đây nổi tiếng ngoan cố, quyết tử thủ tới cùng. Bởi vậy, khi được Tỉnh uỷ mời Hội nghị mở rộng ở Vịnh Dừa (tháng 9/1974), đưa ra quyết sách là giải phóng cơ bản vùng nông thôn Cái Nước, mỗi xã phải tự lực, tự cường, cô Ba chưa chuẩn bị được gì.
Tại hội nghị đó, cô Ba Bay được cấp trên đề nghị thể hiện quyết tâm giải phóng Cái Nước. Cô Ba miêu tả: “Mấy ảnh để cái sơ đồ bự chảng, biểu mình lên trình bày kế hoạch giải phóng. Ở dưới cô đi lên, đi chậm hết cỡ, tranh thủ suy nghĩ cách thể hiện quyết tâm”. 

Do nắm bắt cơ sở nhanh, cô Ba Bay trình bày thuyết phục và thay mặt Tân Hưng Đông thể hiện quyết tâm tự giải phóng bằng 3 mũi giáp công: chính trị, binh vận và then chốt là quân sự. Thời gian đánh bức rút để giải phóng Cái Nước được cô tự đề ra là tháng 12/1974.

Sau hội nghị, cô không ngủ được vì… lo. Không lo sao được, tương quan lực lượng chênh lệch quá, trang bị của xã cũng chẳng có gì đáng kể. Anh em Xã uỷ Tân Hưng Đông nghe nói có chủ trương giải phóng cũng vô cùng phấn khởi, nhưng sau đó lại chùng xuống khi phải tự lực, tự cường.

“Vấn đề quyết định lúc này là phải tạo ra phong trào, cao trào để tập hợp sức mạnh của địa phương”, cô Ba nhấn mạnh. Vậy là Đại hội Đảng khai mạc, lập bàn thờ Bác Hồ, có sổ “lịch sử” để mỗi đảng viên, cán bộ hạ quyết tâm giải phóng. Đại hội chỉ có khai mạc, chừng nào giải phóng Cái Nước mới bế mạc và báo công với Bác.

Cô Ba kể lại, bà má Mười Diệp xin phát biểu tại đại hội rằng: “Hồi đó giờ, tui mới thấy đại hội đặc biệt như vầy. Tui già rồi, sẽ vận động lương thực, cổ vũ con cháu, theo tới chừng nào thắng lợi. Mà chắc chắn sẽ thắng lợi thôi”.

Một nữ du kích còn rất trẻ hăng hái: “Tui xin thề, sẽ ra ở chiến hào chiến đấu tới cùng”. Chẳng biết do hăng hái quá hay cách nói “hổng giống ai”, cả đại hội “cười cái rần”, nhưng ai cũng tin đồng chí ấy nói thật lòng mình.

Vượt qua thử thách

Quyết tâm đã có, nhưng khó khăn còn quá nhiều. Cô Ba chỉ đạo: “Phải chặn bít con đường đấu nối vô Chi khu Cái Nước. Lực lượng quân sự ngày đêm túc trực, không cho địch nống càn, tiêu hao sinh lực địch”. 

Một lực lượng hơn 60 người gồm mõ, tù và, trống được hình thành (bí thư kêu thì hăng hái tham gia, mà chưa biết phụ trách công việc gì). Việc đầu tiên là tìm “đạn dược”. Cô Ba cười: “Bí quá, chỉ có cách đi mò đạn. Mò ở đồn Ông Gấm (đã giải phóng). Lúc đi đâu dám nói với anh em, chỉ nói bảy chị em đi nhổ bồn bồn cải hoạt”.

Cô Ba Bay nhỏ con nhất xung phong: “Để tui mò trước chị em”. Ở trên bờ là bà con, có cả lực lượng thanh niên nhìn mà lắc đầu nghi ngại. Đồn mới giải phóng không bao lâu, nước phèn vàng đặc, miểng đạn, xác đồn ngổn ngang. Thời may, cô Ba tìm được một băng đại liên vàng hực. Chị em càng hăng, quăng lên nào đạn súng cối, đầu B40. Cô Ba nhắc lại: “Ông Gấm chủ nhà thấy chị em mò cực, chịu mưa ướt lạnh thấu xương nên mần con gà nấu cháo cho mọi người ăn”.

Riêng cô Ba rất khâm phục đồng chí Tám Chuyền. Mọi người lên hết, chỉ cô Ba và Tám Chuyền ở lại. Tám Chuyền nói: “Gương là thấy, mẫu là mẹ, hai chị em mình “thấy mẹ” rồi chị Ba”. Ba Bay không chần chừ đáp lại: “Gian khổ nhiều, thắng lợi càng cao. Đảng viên phải đi trước, Tám bỏ là tiêu liền”. Cả hai cùng cười run vai trong cái lạnh tê cóng và hạ quyết tâm “đeo tới cùng”.

Một xuồng đạn đầy chuyển về giao cho công xưởng. Cánh đàn ông nhìn bà Ba mà tự nhiên “mắc cỡ” quá chừng. Về nhà, cô Ba đổ bệnh, lại nghe đồng chí Nguyễn Lương Kháng báo cáo: “Chế Ba, em đi ba lần mà điều nghiên thực địa chưa được. Chế tính sao?”. “Điều nghiên không kỹ là đổ máu, là hy sinh, có thể ảnh hưởng đến thời gian giải phóng. Phải giải quyết nhanh vấn đề này”, cô Ba dứt khoát. 

Xin ý kiến của anh em trong Xã uỷ để mình trực tiếp đi điều nghiên, ai cũng nín thinh. Cô Ba trấn an: “Tôi đi là đi làm nhiệm vụ, cho dù có bị bắt cũng sẽ giữ khí tiết đến cùng”.

Má Tám Cải và chú Bảy Cất chèo xuồng đưa Ba Bay ra trị bệnh (cũng bệnh thiệt, nhưng thực chất là đi nắm tình hình) ngoài nhà của bà Chệt Thầy. Có người thấy Ba Bay xì xồ: “Bí thư ra tới đây thì đồn Cái Nước sắp tiêu rồi”. 

Cô Ba nhanh chóng điều nghiên địa hình, hỏi bà Chệt Thầy nắm bắt những tên ác ôn, những đối tượng có thể cảm hoá của giặc. Qua đó hỏi bà Chệt Thầy: “Lỡ Việt cộng đánh quá thì mần sao?”. Đây là cách vô cùng khéo léo để nắm bắt tâm tư, tình cảm của người dân, từ đó chuẩn bị phương án di dời dân khi nổ ra đánh lớn.

Xong xuôi, còn một việc mà cả Xã uỷ chưa ai dám nhận: Đi báo cáo với đồng chí Tư Vân (tức đồng chí Nguyễn Văn Để, Bí thư Huyện uỷ). Bởi một lẽ, báo cáo mà không sát thì chú Tư sẽ “giũa” cho một trận nên thân. Cô Ba Bay lại đi. Trước khi báo cáo, cô Ba rào trước: “Con nói chú Tư đừng rầy con nghe”, chú Tư Vân gằn giọng: “Chưa báo cáo mà rầy gì mậy?”. Vậy rồi phương án, tình hình, kế hoạch hiệp đồng tác chiến được thông qua. Chú Tư Vân chắc nịch: “Ấn định ngày giải phóng Cái Nước”.

Trận đánh cuối cùng

Ngày 1/12/1974, Tân Hưng Đông ra quân tổng lực nhằm bức rút Chi khu Cái Nước. Để có được ngày này, Tân Hưng Đông đã dành hơn 2 tháng tổng lực làm công tác chuẩn bị, trong đó vai trò của Bí thư Xã uỷ được đồng đội, Nhân dân hoàn toàn tin cậy. 

Các ngã đường về Chi khu Cái Nước bị chặn lại. Ma trận trống chầu, mõ, tù và được triển khai để dụ địch bắn hết đạn. 60 con người làm cho không khí thật sự như có bộ đội chủ lực về triệt hạ chi khu này. Diễn biến tới đâu, Tân Hưng Đông chèo xuồng lên báo cáo Huyện uỷ tới đó.

Vây đánh “xà quần”, lúc giặc đuối thế mở đường máu cho vợ con tẩu thoát, ta bắt được. Cô Ba Bay cho anh em giáo dục mấy ngày, sau đó tự viết bức thư, nội dung là “Tình hình chiến sự cả nước, của Cà Mau, của Cái Nước đã sắp tàn cục. Kêu gọi anh em binh sĩ về với Đảng, với cách mạng sẽ được khoan hồng. Nếu không 5 ngày nữa sẽ bị tiêu diệt toàn bộ” và phần ký tên là của… Tiểu đoàn U Minh 2. Thêm nữa, người phụ trách thả vợ con của tụi giặc còn đồ thêm: “Cái này tui nói lén thôi, bộ đội chủ lực về nhiều lắm, phải mần 5 con bò mới đủ khao quân, mấy bà tính sao thì tính nghen”.

Đồng chí Kháng về báo cáo: “Giặc hoang mang, mình gần hết đạn, tính sao chế Ba?”. Ba Bay nói gọn: “Đeo tới cùng, đạn chế lo”. Rồi Ba Bay cho anh em đi mượn đạn ở Phú Mỹ, “vừa xin, vừa ăn cắp” đạn trên Huyện đội. Dồn sức “quánh một trận cuối cùng”, bởi giặc đã hết hồn vía, sinh lực. 

Lúc này, nữ Bí thư vẫn kiên cường trên tuyến lửa. Đúng 10 giờ đêm 15/12/1974, giặc bỏ Chi khu Cái Nước tháo chạy. Quân và dân Tân Hưng Đông đeo bám đánh đến cùng mãi tới 2 giờ chiều ngày hôm sau. Trên nền đồn giặc còn nghi ngút khói súng, cô Ba Bay kêu gọi: “Tất cả vì thành quả cách mạng, quyết hy sinh để quê hương giải phóng hoàn toàn”.

Cô Ba Bay gần như kiệt sức, mấy bà má kéo Ba Bay lên tắm gội, âu yếm nói: “Tao nghe nói tên mầy, tính đâu đàn ông đàn ang gì, ai dè chút xíu con bây. Bay, lại đây má gội đầu cho… Cái Nước giải phóng rồi”.

Trên nền đồn giặc cũ, gian Nhà thờ Bác được gấp rút xây dựng. Đại hội xã Tân Hưng Đông bế mạc báo công lên Bác. Giọt nước mắt hạnh phúc vỡ oà. Vậy là Ba Bay đã làm được.

Đó là những ngày của 42 năm về trước…

Phạm Quốc Rin

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.