Bài cuối: Hướng đi nào cho nghề nuôi tôm?
Bài 1: Mày mò đi tìm nguyên nhân
Nạn tôm chết chưa rõ nguyên nhân đã làm nhiều người đau đầu, thậm chí phải giật mình lo sợ về viễn cảnh của con tôm. Với thực trạng trên, một vấn đề nóng bỏng được đặt ra là hướng đi nào cho nghề nuôi tôm? Trả lời câu hỏi này thật không đơn giản, bởi nó cần những cú hích mang tính đột phá.
![]() |
Các đồng chí lãnh đạo tỉnh cùng các doanh nghiệp khảo sát mô hình nuôi tôm sinh thái tại huyện Hòa Bình để kêu gọi doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất. Ảnh: L.D |
Bắt đầu từ đâu?
Phân tích tình hình tôm chết trong thời gian qua, nhiều ý kiến cho rằng, để hạn chế tôm chết và hướng đến phát triển bền vững nên bắt đầu từ công tác thủy lợi. Nhiều người xem đầu tư đồng bộ về hạ tầng thủy lợi là giải pháp hàng đầu để cứu con tôm. Tuy nhiên, làm được việc này là điều không đơn giản, phải mất nhiều thời gian và cần có lộ trình. Bởi, với số tiền đầu tư hàng trăm đến hàng chục ngàn tỷ đồng cho các công trình, Bạc Liêu không thể xin Trung ương, hay kiếm đâu ra số vốn rất lớn như vậy. Mặt khác, nếu có hạ tầng thủy lợi hoàn chỉnh thì liệu có khắc phục được nạn tôm chết, ô nhiễm môi trường khi ý thức của người nuôi tôm vẫn chưa được nâng cao. Thậm chí, trong điều kiện kênh mương thông thoáng, nhưng nếu vấn nạn “mạnh ai nấy xả” vẫn còn, sẽ tạo điều kiện cho dịch bệnh phát tán nhanh hơn. Do vậy, để hạn chế nạn tôm chết và dịch bệnh lây lan, vấn đề cần quan tâm không phải là hạ tầng mà từ ý thức cộng đồng. Ông Huỳnh Chí Công, người nuôi tôm (xã Vĩnh Thịnh, huyện Hòa Bình) khẳng định: “Nuôi tôm theo kiểu mạnh ai nấy làm như hiện nay thì dù có đầu tư hạ tầng thủy lợi hoàn chỉnh cũng khó tránh được dịch bệnh. Người thì thả nuôi trước, người lại thả nuôi sau, và mỗi khi tôm chết thì mạnh ai nấy xả nước thải, chẳng ai thông báo cho nhau”.
Nhằm phát huy ý thức, trách nhiệm cộng đồng, hướng đến mô hình nuôi tôm bền vững, có một ý kiến rất hay và gợi mở nhiều vấn đề, đó là: xử lý nước thải cho tôm cần sử dụng ao lắng chung. Vì xử lý nước thải là khâu quan trọng nhất trong nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp (CN-BCN) hiện nay. Theo quy định của ngành Nông nghiệp, mỗi hộ nuôi tôm phải có một ao lắng riêng để xử lý nước thải (nước tôm chết) trước khi đưa ra môi trường, nhưng lâu nay chẳng có mấy ai thực hiện! Vì vậy, việc xây dựng một ao lắng chung cho từng tiểu vùng nuôi tôm, quy định các hộ nuôi tôm đều phải thải nước ra ao lắng này và ngành quản lý sẽ là người xử lý sau cùng trước khi thải ra môi trường là ý kiến hay, cần được nghiên cứu.
Việc làm này sẽ góp phần khắc phục tình trạng lén lút thải nước ô nhiễm ra kênh nội đồng, dễ tập trung xử lý ô nhiễm, dịch bệnh. Qua đó, ngành Nông nghiệp sẽ trút được gánh nặng chi phí hỗ trợ dập dịch hàng năm. Mặt khác, việc xử lý ao lắng chung chỉ xử lý trong trường hợp cần thiết, còn nếu ô nhiễm ở mức độ cho phép thì khỏi phải xử lý. Riêng các hộ nuôi tôm chỉ thải nước ra ao lắng chung trong điều kiện nguồn nước bị ô nhiễm, còn nước sạch thì không cần thải. Đối với nhiều hộ nuôi tôm áp dụng quy trình vi sinh, có thể tận dụng nguồn nước cũ để tiếp tục nuôi thêm vụ mới, nhằm giảm chi phí đầu tư trong cải tạo, xử lý ao và cả việc lấy nước mới vào ao nuôi.
![]() |
Hệ thống kênh mương phục vụ nuôi tôm CN-BCN tại xã Vĩnh Thịnh (huyện Hòa Bình) chưa được đầu tư hoàn chỉnh. |
Hơn 10 năm chuyển đổi sản xuất từ trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi tôm, một bài học xương máu được rút ra là: “nếu nông dân nghèo, ít đất, thì xin đừng nuôi tôm”. Sự đúc kết này đã được minh chứng bằng việc thất bại, nợ nần và đẩy hàng trăm nông dân vào cảnh khốn khó. Ông Trần Quốc Hùng, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Phước Long, cho biết: “Qua thực tiễn cho thấy, phần lớn hộ nuôi tôm bị thất bại đều là hộ nghèo ít đất. Vì họ không có tiền đầu tư trong suốt quá trình nuôi nên hầu hết phải vay vốn. Mô hình nuôi tôm quảng canh - quảng canh cải tiến (QC-QCCT) không còn đơn giản như trước đây là thả con giống xuống và đợi thu hoạch, mà phải nuôi lại trong ao vèo, phải bổ sung thức ăn công nghiệp. Nếu là hộ nghèo thì lấy tiền đâu ra để làm việc này. Còn nếu thả nuôi tự nhiên như trước đây, thì thu hoạch chẳng được bao nhiêu”.
Qua khảo sát thực tế tại các vùng chuyên tôm của huyện Phước Long như: xã Phong Thạnh Tây A, Phong Thạnh Tây B, Vĩnh Phú Tây, Phước Long… phần lớn diện tích ao nuôi ở các xã này đều không được nông dân cải tạo đúng kỹ thuật. Từ đó, rong, cỏ phát triển đầy ao gây ô nhiễm môi trường. Với hình thức thả nuôi theo kiểu “thu tỉa thả bù” làm cho lượng thức ăn trong ao phát triển không kịp (vì lúc nào trong ao cũng có tôm), nên tôm nuôi dễ bị thiếu dinh dưỡng, dẫn đến chết. Qua phân tích mẫu tôm chết ở các xã của huyện Phước Long mới đây cho thấy, hàm lượng khí độc (NH3) vượt ngưỡng cho phép từ 3 - 5 lần và tôm chết có dấu hiệu bị thiếu dinh dưỡng. Để khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, dễ bị thiệt hại, Phòng NN&PTNT huyện Phước Long sẽ tổ chức vận động các hộ nuôi tôm ít đất không nên tiếp tục sản xuất mà nên cho thuê đất, liên kết sản xuất, hay chuyển đổi mô hình sản xuất khác. Đối với mô hình nuôi tôm theo hình thức QC-QCCT kết hợp thì bà con chỉ tập trung nuôi 1 vụ ăn chắc và phải đa dạng hóa các vật nuôi khác ngoài con tôm như: cua, cá… để khi thất tôm vẫn còn cái để thu.
Ngành chức năng cũng khuyến cáo những hộ ít đất hoặc không có vốn đầu tư thì không nên nuôi tôm theo mô hình CN-BCN. Bởi nuôi tôm CN-BCN không dừng ở diện tích, công chăm sóc, trình độ khoa học - kỹ thuật, mà còn liên quan đến nhiều yếu tố khác như: vốn đầu tư, chủ động về con giống, thức ăn, thị trường tiêu thụ và cần cả một quy trình khép kín. Do vậy, việc liên kết sản xuất với doanh nghiệp hay giao đất cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển mô hình nuôi tôm theo hình thức thâm canh cần được khuyến khích nhân rộng. Đơn cử như Công ty TNHH đầu tư thủy sản Huy Thuận, nhờ vào hệ thống dây chuyền khép kín từ khâu sản xuất con giống, chế biến thức ăn (Tomking tại Bạc Liêu), nuôi trồng và chế biến thủy sản xuất khẩu… từ đó, công ty này không ngừng phát triển. Đây được coi là doanh nghiệp khá điển hình về thành công trong sản xuất nuôi trồng và chế biến thủy sản hiện nay.
Phản ánh những vấn đề trên để thấy rằng, việc tổ chức lại sản xuất cho mô hình nuôi tôm QC-QCCT ở vùng Bắc và mô hình CN-BCN ở vùng Nam Quốc lộ 1A đã đến lúc cần được tính toán kỹ. Thực hiện các giải pháp này sẽ gặp nhiều khó khăn vì nó liên quan đến cách nghĩ, cách làm và cả quyền lợi của nhiều người. Song, vì sự phát triển bền vững trong tương lai và người hưởng lợi trực tiếp không ai khác là người nuôi tôm, việc tổ chức lại sản xuất dù khó mấy cũng cần phải thực hiện.
LƯ DŨNG