ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 4-5-25 04:01:49
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ði qua vùng ngọt hoá - Bài cuối: Từng bước gỡ khó

Báo Cà Mau (CMO) Giải pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ vùng ngọt hoá chính là nâng cao thu nhập của người dân. Chỉ khi người dân làm giàu được từ chính hệ sinh thái ngọt thì mâu thuẫn giữa đôi dòng mặn - ngọt mới được gỡ bỏ.

Từ sản xuất nông nghiệp cho đến nuôi thuỷ sản gần như phụ thuộc vào nước trời, trong khi điều kiện dự trữ nước mưa tại chỗ còn nhiều hạn chế. Hệ thống canh tác, nuôi trồng ngọt - mặn đan xen chưa được phân vùng ổn định theo từng loại hình sản xuất, cùng với đó là thời tiết diễn biến bất thường do chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu…

Tất cả những điều kiện bất lợi đến từ yếu tố tự nhiên trên đã khiến hiệu quả sản xuất ở các vùng ngọt hoá trên địa bàn tỉnh chưa cao. Do đó, để nông nghiệp vùng ngọt phát triển ổn định, khai thác hết tiềm năng lợi thế, nâng cao đời sống người dân thì cần tháo gỡ các nút thắt.

Bài bản từ khâu quy hoạch

Quy hoạch lại sản xuất theo từng vùng, từng khu vực cụ thể với loại cây trồng, vật nuôi chủ lực là bước đi đầu tiên và vô cùng quan trọng. Thời gian qua, tỉnh cũng như các địa phương đã liên kết với các trường đại học, viện, nhà khoa học để tiến hành các quy hoạch trong sản xuất nông nghiệp vùng ngọt hoá theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nhờ chuyển đổi nhiều giống rừng mới nên năng suất và chất lượng gỗ không ngừng được nâng lên.

Theo đại diện lãnh đạo Sở Công thương tỉnh Cà Mau, sở luôn sẵn sàng hỗ trợ các địa phương và doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, xúc tiến thương mại cũng như mời gọi doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, để làm được những công việc này trước tiên vùng nguyên liệu phải được quy hoạch ổn định. Ðồng thời, phải thống kê cụ thể sản lượng của từng loại sản phẩm trong từng giai đoạn cụ thể và thông tin về chất lượng sản phẩm. Ðặc biệt, phải có đầu mối, cụ thể là hợp tác xã, tổ hợp tác để doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ hay đăng tải trên các sàn giao dịch điện tử. Còn tình trạng sản xuất nhỏ lẻ như hiện nay, cụ thể là cây bí, đầu ra sẽ rất bấp bênh nếu vào vụ thu hoạch đông ken.

Về góc độ quản lý địa phương, ông Trần Tấn Công, Chủ tịch UBND huyện Trần Văn Thời, cho biết, huyện đang tiếp tục rà soát và điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất theo từng vùng, từng khu vực và sát hơn với thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, cái khó nhất của huyện hiện nay chính là nhà máy chế biến nông sản còn rất hạn chế. Trên địa bàn đã có cơ sở sấy chuối nhưng chưa thấm vào đâu, vẫn còn rất nhiều sản phẩm khác, như mít, dừa…

“Hiện huyện đã chuẩn bị khu vực đất hơn 10 ha với đầy đủ hạ tầng giao thông và cả điện nước… để chờ nhà đầu tư”, ông Công bộc bạch.

Thiếu nhà máy chế biến, thiếu sự liên kết trong sản xuất là nguyên nhân chính khiến nhiều mô hình dù đạt hiệu quả nhưng không thể nhân rộng do đầu ra không ổn định.

Ông Ngô Văn Tự, Ấp 5, xã Trần Hợi, chia sẻ, tuy một vụ màu trên ruộng lúa mang lại hiệu quả cao nhưng không dám phát triển thêm diện tích do đầu ra chưa có gì chắc chắn. “Trồng thì cứ phải trồng nhưng không biết thu hoạch sẽ như thế nào. Cái sợ lớn nhất của người nông dân là giá, giá vật tư đầu vào năm nay tăng gấp 2 lần, còn giá đầu ra thì vô cùng bấp bênh”, ông Tự trần tình.

Liên kết trong sản xuất

Không khó để chỉ ra nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bấp bênh trong đầu ra các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh, đó chính là sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ. Thực trạng này không chỉ khiến đầu ra sản phẩm gặp khó mà việc nhân rộng, phát triển các mô hình hiệu quả, các loại cây trồng, vật nuôi là thế mạnh cũng phải đối diện với nhiều trở ngại.

Nông nghiệp hữu cơ là hướng đi mà tỉnh đã tập trung chỉ đạo nhiều năm qua, nhưng diện tích hiện nay vẫn chưa nhiều, chưa xứng tầm với tiềm năng. Cụ thể, toàn tỉnh hiện nay diện tích lúa hữu cơ cũng chỉ khoảng 800 ha, con tôm cũng chỉ đạt 18.000-19.000 ha. Ðặc biệt hơn, mặt hàng lúa - tôm, sản phẩm ít địa phương nào có thể so sánh được, thời gian qua, hầu như cũng chỉ bán ra thị trường như bao sản phẩm thông thường khác. Giá trị thực sự trong sản phẩm này chưa được khai thác tối đa để mang về giá trị gia tăng cho người dân. Hạn chế này phần lớn do thiếu sự liên kết trong sản xuất nên chưa thể xây dựng vùng nguyên liệu lớn với đầy đủ thương hiệu, mẫu mã bao bì cho đến truy xuất nguồn gốc...

Nói về định hướng phát triển của nền nông nghiệp tỉnh thời gian tới, ông Nguyễn Văn Quân, Phó giám đốc Sở NN&PTNT, nhận định, để nhân rộng những mô hình hiệu quả trước hết phải tổ chức lại sản xuất, để liên kết người nông dân với người nông dân, hợp tác xã với hợp tác xã thì mới có thể lôi kéo và liên kết được với doanh nghiệp. Từ đó, mới xây dựng chuỗi giá trị cho sản phẩm và đây là chuyện phải làm, không có cách nào khác hơn nếu muốn phát triển nhanh và bền vững. Sở sẽ xây dựng đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ, trong đó không tham vọng nhiều sản phẩm mà chỉ tập trung vào những mặt hàng chủ lực.

Gỗ trở thành sản phẩm chủ lực đưa đời sống người dân vùng ngọt U Minh phát triển đáng kể.

Muốn nền nông nghiệp của vùng ngọt nói riêng, cả tỉnh nói chung phát triển nhanh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu không còn cách nào khác hơn là phải tiến hành quy hoạch, tổ chức lại sản xuất cụ thể theo từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi và điều kiện tự nhiên. Ðể từ đó, đầu tư kết cấu hạ tầng đảm bảo với từng loại hình sản xuất. Có như vậy mới thu hút sự tham gia của doanh nghiệp xây dựng chuỗi giá trị trong sản xuất./.

 

Nguyễn Phú

 

Ngày giải phóng Cà Mau

Dì tôi - Người đàn bà đi qua hai cuộc kháng chiến

Trước đây không lâu, Báo Cà Mau có đăng bài viết về chuyện bà Hai Ðầm tham gia trận diệt đồn Tân Bằng năm 1946. Trong trận đánh táo bạo này, bà được Chi bộ Thới Bình cài vào đồn giặc Pháp làm nội gián để cùng bộ đội ta thực hiện phương án “nội công ngoại kích”. Bài viết theo lời kể của ông Huỳnh Văn Tứ ở thị trấn Thới Bình, người cùng thế hệ và có mối quan hệ thân tộc với bà Hai Ðầm.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài cuối: Ðổi mới phương pháp dạy và học

Việc Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT) siết chặt quản lý dạy thêm, học thêm theo Thông tư số 29/2024/TT-BGDÐT quy định về dạy thêm, học thêm (Thông tư 29) đã nhận được sự đồng thuận của xã hội. Bởi chính phụ huynh, học sinh và cả các thầy cô giáo nhận ra đã đến lúc cần thay đổi tư duy giáo dục theo hướng mở.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài 2: Chia nhau trách nhiệm

Ðể siết chặt vấn đề dạy thêm - học thêm, nếu chỉ dựa vào nỗ lực của ngành giáo dục là chưa đủ, mà còn đòi hỏi sự nhìn nhận đúng và sự giám sát của phụ huynh, của xã hội.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều

Thông tư 29/2024/TT-BGDÐT ngày 30/12/2024 của Bộ Giáo dục và Ðào tạo (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm chính thức có hiệu lực từ ngày 14/2/2025. Câu hỏi đặt ra là việc quản lý sau đó như thế nào để không có việc “nóng” kiểm tra thời gian đầu, còn sau lại đâu vào đó? Giáo viên, phụ huynh và học sinh các cấp sẽ “sống” cùng với thông tư như thế nào? Bên cạnh đó, các cơ sở dạy thêm trên địa bàn tỉnh Cà Mau cũng đang oằn mình để đón thêm lượng học viên quá tải...

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài cuối: Nền móng vững chắc cho Cà Mau vươn xa

Chủ trương sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện, một quyết sách chiến lược của Chính phủ hướng đến bộ máy hành chính tinh gọn đã mang đến những thay đổi sâu rộng trong quản lý đô thị trên cả nước. Tại Cà Mau, bối cảnh mới này đòi hỏi sự đánh giá lại về quỹ đạo phát triển của các khu vực đô thị, đặc biệt là những nơi đã nỗ lực xây dựng các tiêu chí đô thị văn minh. Tới đây, các danh xưng hành chính có thể thay đổi, nền tảng hạ tầng, kinh tế và xã hội đã được kiến tạo vẫn là tài sản vô giá, làm nền móng vững chắc, định hình tương lai phát triển của Cà Mau sau này.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 2: Bước chuyển mình của đô thị hoá nông thôn

Khác với sự trỗi dậy mạnh mẽ của các đô thị động lực, như TP Cà Mau, Sông Ðốc và Năm Căn, những làng quê, nơi mà quá trình đô thị hoá đang diễn ra một cách lặng lẽ lại trở thành nơi lý tưởng, đáng sống, ước mơ của nhiều người. Cà Mau, từ một bức tranh tưởng chừng đơn điệu, với ruộng lúa, ao tôm, cánh đồng hoa màu và những con rạch hiền hoà, nay khoác lên mình diện mạo mới, hiện đại hơn, thuận tiện hơn, nhưng vẫn giữ được bản sắc miền Tây sông nước.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 3: Giải mã “điểm nghẽn” để khơi thông tiềm năng

Tốc độ đô thị hoá của Cà Mau tăng trung bình 1,3%/năm, phản ánh sức hút và tiềm năng nội tại. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa tương xứng với tiềm lực vốn có và còn cách biệt so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình đô thị hoá tại Cà Mau vẫn đang đối diện với những nút thắt cần tháo gỡ.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh

Tỉnh Cà Mau đang kiến tạo một nền tảng vững chắc để đô thị hoá trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Ðến cuối năm 2024, tỷ lệ đô thị hoá của tỉnh đạt 33,04%, với 22 đô thị, cao hơn mức trung bình của đồng bằng sông Cửu Long (32,0%) và vượt một số tỉnh lân cận, như Vĩnh Long (28,7%), Hậu Giang (30,5%)... Với TP Cà Mau, Năm Căn và Sông Ðốc làm tam giác động lực, tỉnh không chỉ mở rộng không gian đô thị mà còn tạo sức bật kinh tế toàn diện. Không chạy theo đô thị hoá ồ ạt, tỉnh tập trung xây dựng nền tảng hạ tầng vững chắc, phát huy lợi thế kinh tế biển, logistics và dịch vụ thương mại để trở thành điểm sáng mới của vùng Tây Nam Bộ.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài cuối: Khơi thông dòng chảy

Khởi nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng tài nguyên bản địa của địa phương là một lợi thế. Tuy nhiên, nó cũng có nhiều thách thức cho hoạt động khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp “xanh” nói riêng của tỉnh. Ðể nâng tầm khởi nghiệp “xanh”, Cà Mau đang cần những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Ðịa phương cũng cần chú trọng hơn đến phát triển kinh tế bền vững và hỗ trợ các mô hình khởi nghiệp “xanh”, cũng như các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, đào tạo, phát triển cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.