ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 22-11-24 13:37:57
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Giải bài toán bảo vệ môi trường

Báo Cà Mau (CMO) Những năm gần đây, nền kinh tế tỉnh Cà Mau không ngừng phát triển, đời sống người dân không ngừng nâng lên. Phát triển kinh tế luôn gắn liền với đô thị hoá, nhiều cụm công nghiệp hình thành làm cho bức tranh kinh tế - xã hội tỉnh nhà thêm sôi động. Song hành với sự phát triển đó, nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, sử dụng năng lượng, nhiên liệu, sản xuất công nghiệp cũng tăng theo. Từ đó, phát sinh nhiều chất thải trong sinh hoạt cũng như sản xuất các ngành công nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường. Vấn đề xử lý rác thải, nước thải... đã và đang là bài toán khó.

Bài 1: Sức ép ô nhiễm môi trường

Thời gian gần đây quá trình đô thị hoá và mở rộng địa giới hành chính đô thị tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, dân số thành thị tăng nhanh. Cùng với kinh tế phát triển, đời sống người dân tại các khu vực nông thôn được cải thiện, nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng cũng gia tăng. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ này kéo theo một lượng chất thải vào môi trường, tạo ra nhiều sức ép, gây ảnh hưởng đến môi trường.

Cà Mau có diện tích tự nhiên là 5.274,51 km2, dân số hơn 1,4 triệu người, phân bố tương đối đều với mật độ trung bình là 229 người/km2. Trên địa bàn tỉnh Cà Mau hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường tại các điểm chợ, khu thương mại, vui chơi giải trí, các hộ gia đình… ở trung tâm TP Cà Mau, thị trấn các huyện khá cao. Ða phần chợ và các hộ dân sinh sống ven sông, rạch, do ý thức và thói quen mà nhiều hộ dân và tiểu thương không ngần ngại vứt rác bừa bãi. Thêm việc thiếu mặt bằng, trang thiết bị, phương tiện thu gom, tập kết rác nên rác thải không được xử lý triệt để, dẫn đến ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng.

Do xe thu gom rác không thể tiếp cận nên người dân đành gom rác và đốt ngay cạnh trường học ở thị trấn Sông Đốc.

Các tác động đến môi trường

Thực tế môi trường đang bị ô nhiễm luôn là vấn đề bức xúc, nhận được sự quan tâm rất nhiều từ dư luận xã hội. Những tác động từ các sinh hoạt dân cư, hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, thương mại đã gây sức ép lớn, dẫn đến ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất… Tình trạng này cứ thế lặp đi lặp lại.

Cụ thể, tỷ trọng nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh và giữ vị trí quan trọng (so với công nghiệp và dịch vụ); quy mô sản xuất vẫn phát triển mở, nhiều dự án nông nghiệp được triển khai và đóng góp nhiều giá trị thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cùng với đó là sức ép của ngành nông nghiệp đến môi trường ngày càng tăng. Hoạt động nuôi thuỷ sản phát triển rất mạnh, đặc biệt là nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh xả thải lượng lớn chất ô nhiễm ra môi trường tự nhiên. Ngoài ra, các hoạt động khác như nuôi cá, cua, nghêu, sò... cũng tác động không nhỏ đến môi trường. Nhiều dự án chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô lớn được triển khai cũng làm tăng các tác động về môi trường, ảnh hưởng đến cuộc sống người dân, đặc biệt là ô nhiễm không khí, mùi hôi.

Bên cạnh đó, hoạt động của các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ từng bước được mở rộng, quy mô nâng lên. Theo đó, việc tăng cường khai thác, sử dụng tài nguyên để phục vụ mục đích phát triển kinh tế gây nhiều sức ép tới môi trường đất, nước, không khí, cụ thể ở các ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản, xây dựng cơ sở hạ tầng… Cùng với quá trình chuyển dịch kinh tế và công nghiệp hoá, đô thị hoá theo thời gian ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường và tài nguyên nước, làm cho môi trường dễ bị suy thoái hơn, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của địa phương.

Một nguyên nhân tiếp theo tác động đến môi trường là hoạt động sinh hoạt của dân cư, mà vấn đề đáng quan tâm là cơ cấu dân số có xu hướng dịch chuyển từ nông thôn sang thành thị cũng gây ra nhiều áp lực về môi trường trên địa bàn thành phố. Lượng nước thải sinh hoạt của tỉnh có xu hướng tăng ở đô thị, tuy nhiên có xu hướng giảm ở nông thôn. Do quá trình di dân từ nông thôn sang thành thị; quá trình đô thị hoá, đời sống người dân tiếp tục phát triển, kéo theo lượng nước thải, rác thải sinh hoạt cũng tăng theo, khiến cho môi trường quá tải, khó kiểm soát dẫn đến ô nhiễm.

Thực tế cho thấy, hạ tầng bảo vệ môi trường tại các đô thị trên địa bàn tỉnh chưa hoàn thiện. Ðiều đáng quan tâm hiện nay là hệ thống thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt chưa có, hầu hết đều thải trực tiếp ra ao hồ, sông, rạch và thấm vào đất, gây ô nhiễm môi trường.

Theo số liệu phân tích từ công tác bảo vệ môi trường năm 2022, tổng lượng nước thải trên địa bàn tỉnh khoảng 43.338 m3/ngày đêm. Hiện tại, các khu đô thị trên địa bàn tỉnh Cà Mau chưa có khu xử lý nước thải tập trung đưa vào vận hành, nước thải chưa xử lý thải trực tiếp ra môi trường; nước thải nông thôn cũng chưa được thu gom, xử lý. Còn chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên địa bàn tỉnh khoảng 812,7 tấn/ngày (ở khu vực đô thị là 261,1 tấn/ngày; ở khu vực nông thôn là 551,6 tấn/ngày). Hiện tại, tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt ở khu vực đô thị đạt khoảng 87,8%, tương ứng với khối lượng 246,7 tấn/ngày; còn tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt là 88,3%; tương ứng với khối lượng thu gom thực tế là 504,8%. (Nguồn số liệu tổng hợp theo Chuyên đề Quản lý chất thải rắn sinh hoạt năm 2022 trên địa bàn tỉnh Cà Mau).

Ô nhiễm bủa vây

Trước những phân tích số liệu cụ thể từ các tác động đến môi trường, việc xử lý nước thải, chất thải trên địa bàn tỉnh trong năm qua là thực trạng đáng báo động. Con số chênh lệch giữa việc xả thải và việc thu gom, xử lý đã làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường tại các điểm tập trung đông dân cư đến lúc báo động.

Theo số liệu thống kê từ Phòng Tài nguyên và Môi trường các huyện, TP Cà Mau, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại khu vực đô thị và nông thôn tăng cao nhất vào năm 2021. Cụ thể: khu vực đô thị năm 2021 tăng 49,6 tấn/ngày so với năm 2019; tăng 40,1 tấn/ngày so với năm 2020; khu vực nông thôn năm 2021 tăng 44,1 tấn/ngày so với năm 2019; tăng 34,1 tấn/ngày so với năm 2020. Khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trung bình tại nông thôn cao hơn so với đô thị trong năm 2021 khoảng 2,1 lần.

Cách tính chỉ số phát sinh (kg/người/ngày) = (Khối lượng phát sinh (tấn/ngày) x 1.000)/dân số theo từng năm. Theo đó, chỉ số phát sinh chất thải rắn sinh hoạt năm 2019 và năm 2020 khu vực đô thị là 0,8 kg/người/ngày; khu vực nông thôn là 0,6 kg/người/ngày; đến năm 2021 chỉ số phát sinh chất thải rắn sinh hoạt đô thị là 0,9 kg/người/ngày; tăng 0,1 kg/người/ngày so với năm 2019 và 2020. (Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Cà Mau năm 2022, chuyên đề “Quản lý chất thải rắn sinh hoạt)

Phản ánh về vấn đề ô nhiễm tại cửa biển được xem là sầm uất bậc nhất ở Cà Mau, một cán bộ tại thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời, cho hay: “Nước thải từ các nơi kinh doanh, mua bán hải sản cứ thải thẳng ra sông, chứ nơi đây thực tế chưa có nơi xử lý. Một số doanh nghiệp có xử lý nước thải trước khi xả ra môi trường, số thì không xử lý nước. Người dân nhiều lần phản ánh nhưng vấn đề này do cấp tỉnh quản lý, chúng tôi chỉ ghi nhận tình hình rồi báo cáo”.

Không chỉ ô nhiễm từ nước thải sản xuất hải sản, thực trạng rác thải tại các khu vực dân cư cũng là vấn đề đáng báo động. Ghi nhận của phóng viên tại tuyến kênh rạch ô nhiễm ở Khóm 7, thị trấn Sông Ðốc, thực trạng này đang xảy ra nhiều năm nay. Ðây là khóm tập trung đông dân cư sinh sống, điều đáng nói là ô nhiễm môi trường hiện diện ngay cạnh Trường THCS Sông Ðốc 1.

Hiện trạng ô nhiễm rác thải cứ liên tục tái diễn tại các khu vực dân cư (Khóm 7, thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời).

“Tôi sống ở đây hơn 10 năm, thấy tình trạng rác thải, nguồn nước đen ngòm và mùi khí thải từ nhà máy chế biến bột cá ngày một trầm trọng hơn. Ðiều đáng nói là hơn 1 năm nay, lượng rác thải ngày càng nhiều mà việc thu gom, xử lý thì bị bỏ lơ, có thời điểm không ai đến thu gom. Không ai gom thì buộc lòng những hộ dân phía trong phải đổ đại xuống kênh, giờ rác gần như lấp hết tuyến kênh này rồi. Mùi hôi thối nồng nặc, thế mà chúng tôi chẳng biết làm gì hơn là chấp nhận sống chung, chứ biết dời nhà đi đâu bây giờ”, ông Trần Văn Tân, Khóm 7, thị trấn Sông Ðốc, bức xúc.

Thực trạng ô nhiễm cứ thế bủa vây đời sống người dân tại Khóm 2, thị trấn Sông Ðốc, đã nhiều năm nay. Kênh rạch bí bách không lối thoát, nguồn nước ô nhiễm trầm trọng từ rác thải của nhiều hộ dân không ý thức. Thêm nữa là tuyến đường này con lộ quá hẹp nên xe chở rác không thể vào thu gom, người dân đành gom lại một chỗ, sau đó tự đốt rác ngay cạnh hàng rào trường học. Ðây là một trong số những điểm nóng điển hình khi chính sức ép từ việc đô thị hoá đi nhanh hơn so quy hoạch đô thị dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu vực tập trung đông dân cư, khu công nghiệp. Và rồi câu chuyện ô nhiễm môi trường khu vực này vẫn tái diễn, không biết khi nào mới chấm dứt./.

 

Hưng Anh

Bài 2: KHÓ KHĂN CÔNG TÁC THU GOM, XỬ LÝ

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.