ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 3-5-25 15:42:11
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Giảm nghèo nhìn từ đa chiều - Bài cuối: Giải pháp bền vững

Báo Cà Mau (CMO) Ngày 27/1/2021, Chính phủ ban hành Nghị định 07/2021/NĐ-CP về Quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025. Theo nghị định này, chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều với những tiêu chí, quy định ở cấp độ, mức độ cao hơn so với chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020. Việc áp dụng chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn mới vừa là thách thức, vừa là cơ hội trong thực hiện các chính sách giảm nghèo bền vững ở các địa phương. Do đó, cần có những kế hoạch cụ thể, sự nỗ lực, phấn đấu của các địa phương cũng như sự phấn đấu vươn lên từ các hộ nghèo để có thể giảm nghèo bền vững.

Trong chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng giai đoạn 2016-2020 có tiêu chí về thu nhập khu vực nông thôn là 1,5 triệu đồng/người/tháng, khu vực thành thị 2 triệu đồng/người/tháng (chuẩn cũ tương ứng là 700.000 đồng và 900.000 đồng/người/tháng). Đây là mức thu nhập khá cao đối với hộ nghèo, nhất là khu vực nông thôn.

Bên cạnh đó, việc tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tăng từ 5 chiều lên 6 chiều, bổ sung chiều thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản về việc làm; sửa đổi, bổ sung các chỉ số đo lường các chiều thiếu hụt về y tế, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo, nhà ở, nước sạch, vệ sinh, thông tin và người phụ thuộc trong hộ gia đình. Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản tăng lên 12 chỉ số (chuẩn cũ 10 chỉ số).

Chuẩn mới nâng tầm chất lượng giảm nghèo

Bà Nguyễn Thu Tư, Phó giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ, TB&XH) đánh giá: “Trước đây, nhiều hộ gia đình có thu nhập hay chỉ tiêu bình quân đầu người cao hơn chuẩn nghèo nhưng lại không tiếp cận được với nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh, khám chữa bệnh, không được đến trường, không được tiếp cận thông tin cũng được xác định là nghèo. Hiện nay, cái nghèo không chỉ gắn liền với sự thiếu thốn thu nhập hay chi tiêu mà còn là việc không được thoả mãn các nhu cầu cơ bản khác của con người. Xác định hộ nghèo theo chuẩn đa chiều sẽ tác động toàn diện hơn đến người nghèo, giúp đảm bảo mức sống tối thiểu, đồng thời đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Thông tin về tình trạng nghèo đa chiều cũng giúp theo dõi tiến trình giảm nghèo và đánh giá tác động của các nhóm chính sách giảm nghèo, phát triển xã hội qua thời gian giữa các địa phương, các nhóm dân cư để điều chỉnh cho phù hợp”.

Với chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn mới, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo toàn tỉnh đã tăng cao. Nhiều hộ trên địa bàn tỉnh dù thoát nghèo, thoát cận nghèo từ những năm trước, nhưng khi áp vào các tiêu chí của giai đoạn mới lại rơi vào hộ nghèo, hộ cận nghèo.

Qua thực tế rà soát theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025, toàn tỉnh có 9.569 hộ nghèo, chiếm 3,12% (tăng 5.259 hộ, tăng 1,71% so với chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020); hộ cận nghèo có 6.933 hộ, chiếm 2,26% (tăng 2.245 hộ, tăng 0,73% so với chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020).

Bên cạnh những thách thức, việc xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn mới cũng mở ra những cơ hội để các cấp, các ngành nhìn nhận đúng bản chất, nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo khó, từ đó có thêm nhiều giải pháp và cách tiếp cận để thúc đẩy công tác giảm nghèo bền vững. Đồng thời, hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh sẽ được tiếp cận đầy đủ hơn với các dịch vụ xã hội cơ bản.

Người dân “xóm than” Ấp 1, xã Khánh Thuận, huyện U Minh, mong muốn được hỗ trợ nhiều hơn từ chính quyền địa phương để thoát nghèo bền vững.

Ông Phạm Văn Tú, Trưởng phòng LĐ,TB&XH huyện U Minh, cho biết: “Bên cạnh thuận lợi là sự hỗ trợ từ các cơ quan, đơn vị, mạnh thường quân, vẫn còn 1 nhóm khó khăn đó là nhóm có đối tượng bảo trợ xã hội. Đó là, trong gia đình họ có thành viên bị bệnh hiểm nghèo hay khuyết tật phải chi phí khá cao cho chăm sóc người bệnh, mất sức lao động… Nhóm nữa là không có tư liệu sản xuất nên muốn hỗ trợ cũng rất khó. Đã qua, có một số hộ được hỗ trợ nhưng chỉ là đất ở trong các khu tái định cư, nhưng chỉ giải quyết được một phần nhỏ thôi, còn đa số do quỹ đất của huyện không đảm bảo. Một số ít có lao động nhưng lười lao động, còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cũng chưa có mô hình kinh tế nào hiệu quả có thể nhân rộng.

Sau khi điều tra, rà soát chuẩn nghèo mới, đưa nghị quyết giảm hộ nghèo 1,5%, huyện U Minh băn khoăn các chương trình giảm nghèo về khá muộn nên khi triển khai đến các hộ dân thực hiện chưa thu được hiệu quả. Năm nay, Huyện uỷ đã phân công 49 cơ quan, đơn vị phụ trách giúp đỡ các ấp có tỷ lệ hộ nghèo từ 9% trở lên. Qua đó, phân nhóm đối tượng để có hình thức giúp đỡ phù hợp, ưu tiên những hộ có tư liệu sản xuất, có lao động và quan tâm đặc biệt đến những hộ có lao động mà lười lao động sẽ có phương thức động viên, tuyên truyền giúp đỡ phù hợp.

Đồng bộ các giải pháp

Để triển khai thực hiện chủ trương, hướng dẫn của Trung ương, Sở LĐ,TB&XH tham mưu UBND tỉnh ban hành các kế hoạch, như Kế hoạch số 10/KH-UBND ngày 11/1/2022 về việc thực hiện công tác giảm nghèo bền vững năm 2022, Kế hoạch số 70/KH-UBND ngày 31/3/2022 về triển khai thực hiện công tác giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Trong đó, mục tiêu đặt ra là phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo đa chiều hàng năm giảm tối thiểu 0,5%, đến cuối năm 2025 còn không quá 1%.

Những mô hình kinh tế hiệu quả sẽ được nhân rộng để tạo thu nhập bền vững cho hộ nghèo giai đoạn mới.

Bà Nguyễn Thu Tư nhấn mạnh: “Để thực hiện mục tiêu đó, cần tập trung nguồn lực, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các dự án, chính sách phát triển kinh tế - xã hội để hỗ trợ giảm nghèo, cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu các xã, ấp đặc biệt khó khăn, gắn với thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tạo điều kiện thuận lợi để người nghèo, cận nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản. Trong đó, chú trọng, tập trung nguồn lực hỗ trợ các xã tỷ lệ hộ nghèo còn cao, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển”.

Nhân rộng các mô hình, dự án giảm nghèo hỗ trợ phát triển sản xuất nhằm tạo sinh kế, việc làm, thu nhập bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, dịch bệnh cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người dân sinh sống trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển.

Bên cạnh đó, một số vấn đề rất cơ bản là để giảm nghèo hiệu quả phải bám sát, nắm chặt chẽ tình hình thực tế các hộ nghèo, phân tích thật kỹ nguyên nhân nghèo của từng hộ để tìm ra giải pháp thiết thực, phù hợp. Quá trình thực hiện bảo đảm không trùng lặp, bỏ sót đối tượng; có cơ chế lồng ghép chính sách, tích hợp nguồn lực. Đặc biệt là nâng cao nhận thức của toàn xã hội về giảm nghèo bền vững, khơi dậy tinh thần tự lực vươn lên thoát nghèo của người dân, khuyến khích họ tích cực tham gia vào quá trình thực hiện mục tiêu giảm nghèo với tinh thần người nghèo, hộ nghèo là chủ thể quyết định và Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ, hướng dẫn./.

 

Minh Long

 

Ngày giải phóng Cà Mau

Dì tôi - Người đàn bà đi qua hai cuộc kháng chiến

Trước đây không lâu, Báo Cà Mau có đăng bài viết về chuyện bà Hai Ðầm tham gia trận diệt đồn Tân Bằng năm 1946. Trong trận đánh táo bạo này, bà được Chi bộ Thới Bình cài vào đồn giặc Pháp làm nội gián để cùng bộ đội ta thực hiện phương án “nội công ngoại kích”. Bài viết theo lời kể của ông Huỳnh Văn Tứ ở thị trấn Thới Bình, người cùng thế hệ và có mối quan hệ thân tộc với bà Hai Ðầm.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài cuối: Ðổi mới phương pháp dạy và học

Việc Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT) siết chặt quản lý dạy thêm, học thêm theo Thông tư số 29/2024/TT-BGDÐT quy định về dạy thêm, học thêm (Thông tư 29) đã nhận được sự đồng thuận của xã hội. Bởi chính phụ huynh, học sinh và cả các thầy cô giáo nhận ra đã đến lúc cần thay đổi tư duy giáo dục theo hướng mở.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài 2: Chia nhau trách nhiệm

Ðể siết chặt vấn đề dạy thêm - học thêm, nếu chỉ dựa vào nỗ lực của ngành giáo dục là chưa đủ, mà còn đòi hỏi sự nhìn nhận đúng và sự giám sát của phụ huynh, của xã hội.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều

Thông tư 29/2024/TT-BGDÐT ngày 30/12/2024 của Bộ Giáo dục và Ðào tạo (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm chính thức có hiệu lực từ ngày 14/2/2025. Câu hỏi đặt ra là việc quản lý sau đó như thế nào để không có việc “nóng” kiểm tra thời gian đầu, còn sau lại đâu vào đó? Giáo viên, phụ huynh và học sinh các cấp sẽ “sống” cùng với thông tư như thế nào? Bên cạnh đó, các cơ sở dạy thêm trên địa bàn tỉnh Cà Mau cũng đang oằn mình để đón thêm lượng học viên quá tải...

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài cuối: Nền móng vững chắc cho Cà Mau vươn xa

Chủ trương sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện, một quyết sách chiến lược của Chính phủ hướng đến bộ máy hành chính tinh gọn đã mang đến những thay đổi sâu rộng trong quản lý đô thị trên cả nước. Tại Cà Mau, bối cảnh mới này đòi hỏi sự đánh giá lại về quỹ đạo phát triển của các khu vực đô thị, đặc biệt là những nơi đã nỗ lực xây dựng các tiêu chí đô thị văn minh. Tới đây, các danh xưng hành chính có thể thay đổi, nền tảng hạ tầng, kinh tế và xã hội đã được kiến tạo vẫn là tài sản vô giá, làm nền móng vững chắc, định hình tương lai phát triển của Cà Mau sau này.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 2: Bước chuyển mình của đô thị hoá nông thôn

Khác với sự trỗi dậy mạnh mẽ của các đô thị động lực, như TP Cà Mau, Sông Ðốc và Năm Căn, những làng quê, nơi mà quá trình đô thị hoá đang diễn ra một cách lặng lẽ lại trở thành nơi lý tưởng, đáng sống, ước mơ của nhiều người. Cà Mau, từ một bức tranh tưởng chừng đơn điệu, với ruộng lúa, ao tôm, cánh đồng hoa màu và những con rạch hiền hoà, nay khoác lên mình diện mạo mới, hiện đại hơn, thuận tiện hơn, nhưng vẫn giữ được bản sắc miền Tây sông nước.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 3: Giải mã “điểm nghẽn” để khơi thông tiềm năng

Tốc độ đô thị hoá của Cà Mau tăng trung bình 1,3%/năm, phản ánh sức hút và tiềm năng nội tại. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa tương xứng với tiềm lực vốn có và còn cách biệt so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình đô thị hoá tại Cà Mau vẫn đang đối diện với những nút thắt cần tháo gỡ.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh

Tỉnh Cà Mau đang kiến tạo một nền tảng vững chắc để đô thị hoá trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Ðến cuối năm 2024, tỷ lệ đô thị hoá của tỉnh đạt 33,04%, với 22 đô thị, cao hơn mức trung bình của đồng bằng sông Cửu Long (32,0%) và vượt một số tỉnh lân cận, như Vĩnh Long (28,7%), Hậu Giang (30,5%)... Với TP Cà Mau, Năm Căn và Sông Ðốc làm tam giác động lực, tỉnh không chỉ mở rộng không gian đô thị mà còn tạo sức bật kinh tế toàn diện. Không chạy theo đô thị hoá ồ ạt, tỉnh tập trung xây dựng nền tảng hạ tầng vững chắc, phát huy lợi thế kinh tế biển, logistics và dịch vụ thương mại để trở thành điểm sáng mới của vùng Tây Nam Bộ.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài cuối: Khơi thông dòng chảy

Khởi nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng tài nguyên bản địa của địa phương là một lợi thế. Tuy nhiên, nó cũng có nhiều thách thức cho hoạt động khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp “xanh” nói riêng của tỉnh. Ðể nâng tầm khởi nghiệp “xanh”, Cà Mau đang cần những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Ðịa phương cũng cần chú trọng hơn đến phát triển kinh tế bền vững và hỗ trợ các mô hình khởi nghiệp “xanh”, cũng như các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, đào tạo, phát triển cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.