(CMO) Ðối thoại, tiếp xúc với Nhân dân là hoạt động rất quan trọng, giúp các cấp uỷ Ðảng, chính quyền thấy rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn Nhân dân đang quan tâm gì, bức xúc gì, hài lòng việc gì. Có khi cùng một vấn đề nhưng có nhiều quan điểm, cách nhìn khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Chỉ thông qua các cuộc tranh luận, trao đổi trực tiếp, người dân có thể trình bày ý kiến của mình một cách tỉ mỉ; chủ thể được tiếp thu và giải đáp kịp thời những vấn đề mà người dân đang quan tâm, từ đó mà các vấn đề được giải quyết tận gốc rễ. Nhờ đó, người dân được giải toả tâm lý về những vấn đề còn đang băn khoăn, khúc mắc.
Cũng thông qua buổi tiếp xúc, lắng nghe Nhân dân, từng cơ quan chức năng sẽ thấy rõ hạn chế, trách nhiệm của mình để khắc phục, giải quyết những vấn đề phát sinh. Ðây chính là tiền đề rất quan trọng nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức cũng như hành động trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Ðối thoại nhằm mục đích công khai, minh bạch hồ sơ vụ việc, tiếp nhận đầy đủ các thông tin liên quan đến việc giải quyết, làm rõ nội dung, yêu cầu của người khiếu nại (KN), người bị KN, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về vụ việc giữa các bên và hướng giải quyết KN. Việc trao đổi, giải thích trực tiếp nhằm tạo sự thống nhất nhận thức quy định của pháp luật, đồng thuận giữa các bên trong phương án giải quyết vụ việc trên cơ sở tôn trọng thực tế khách quan, đảm bảo đúng chính sách, pháp luật, có tính khả thi và hướng đến kết thúc vụ việc tranh chấp giữa cơ quan hành chính và người dân trên thực tế.
Phó giám đốc Sở Tư pháp Cà Mau Phạm Quốc Sử và Chủ tịch UBND huyện Ngọc Hiển Trần Hoàng Lạc đối thoại với công dân Tạ Hoàng Thơm (ấp Khai Long, xã Ðất Mũi) ngày 12/5 vừa qua. Ảnh: H.PHƯỢNG |
Tầm quan trọng của đối thoại
Thông qua hoạt động đối thoại, người giải quyết KN sẽ hiểu rõ hơn về nội dung vụ việc KN, yêu cầu của người KN, trên cơ sở đó có hướng giải quyết KN một cách khách quan, đúng đắn.
Tầm quan trọng của đối thoại đã được nhắc đến trong Nghị quyết 39/2012/QH13 ngày 23/11/2012 như sau: “Lãnh đạo các cấp chủ động, làm tốt công tác đối thoại trực tiếp với người KN, tố cáo, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân".
Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết KN, tố cáo cũng nêu rõ: "Người đứng đầu tổ chức Ðảng, Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về tình hình KN, tố cáo và công tác tiếp công dân, giải quyết KN, tố cáo trong phạm vi địa bàn, lĩnh vực phụ trách. Thực hiện nghiêm chế độ tiếp công dân theo quy định của Luật Tiếp công dân, gắn việc tiếp công dân với xử lý, giải quyết KN, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Chú trọng tiếp công dân tại cơ sở, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người dân. Chủ động đối thoại, vận động, thuyết phục công dân để giải quyết, tháo gỡ triệt để khiếu kiện, bức xúc của công dân".
Nhiều trường hợp người KN khi tổ chức đối thoại với cơ quan Nhà nước đã nhận thức rõ sự việc KN của mình không đúng pháp luật nên tự nguyện rút đơn KN. Hoặc đối với người có thẩm quyền giải quyết KN, sẽ phát hiện những quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý hoặc các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cá nhân mình là trái pháp luật, từ đó có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp đối với người KN nói riêng và đối tượng chịu sự tác động của quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật gây ra.
Mặt khác, khi người có thẩm quyền giải quyết KN tổ chức đối thoại với người KN sẽ tìm được tiếng nói chung, giúp việc giải quyết KN một cách hiệu quả, nhanh chóng, tránh tình trạng người KN khiếu nại tiếp. Qua tổ chức đối thoại, có thể người có thẩm quyền và người KN thoả thuận được phương án giải quyết vụ việc KN mà không cần thiết phải ra quyết định giải quyết KN. Có rất nhiều dẫn chứng trên thực tế cho việc này.
Cụ thể như tại tỉnh Bình Phước vài năm trước đây, Chủ tịch UBND tỉnh có buổi đối thoại với 9 hộ dân ở Khu phố 5, phường Long Phước để giải quyết KN của người dân trong việc bồi thường, giải phóng mặt bằng thuộc Dự án khu trung tâm hành chính và khu đô thị mới thị xã Phước Long. Tiếp đó là đối thoại với người dân thị xã Ðồng Xoài kể cả trong ngày nghỉ và buổi tối để có thể giải quyết những kiến nghị của dân sớm nhất, đồng thời giải quyết các điểm nóng về khiếu tố đất đai trên địa bàn thuộc trách nhiệm giải quyết của UBND tỉnh.
Có thể nói, việc đối thoại giữa người đứng đầu chính quyền với cộng đồng dân cư về vấn đề liên quan đến lợi ích của họ, đồng thời lắng nghe để giải quyết các KN, kiến nghị, phản ánh nói chung, nhiều khi giúp tìm ra phương hướng, giải pháp xử lý tốt hơn là đi đến một quyết định cụ thể.
Còn nhiều khó khăn, vướng mắc
Xác định tầm quan trọng đó của hoạt động đối thoại, Luật KN, tố cáo năm 1998 và Luật KN năm 2011 đều quy định về việc đối thoại là một thủ tục trong quá trình giải quyết KN.
Tuy nhiên, hai luật này quy định khác nhau về việc đối thoại. Nếu như Luật KN, tố cáo năm 1998 quy định người giải quyết KN phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người KN, người bị KN (Ðiều 37), thì Luật KN năm 2011 đã có sự thay đổi khi quy định về vấn đề này. Ðiều 30 của Luật KN năm 2011 quy định, đối với giải quyết KN lần đầu, nếu yêu cầu của người KN và kết quả xác minh nội dung KN còn khác nhau thì người giải quyết KN tổ chức đối thoại với người KN, người bị KN, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung KN, yêu cầu và hướng giải quyết KN. Như vậy, với quy định này, trong thủ tục giải quyết KN lần đầu, việc tổ chức đối thoại không mang tính chất bắt buộc đối với mọi trường hợp. Hoạt động này chỉ phải thực hiện trong trường hợp yêu cầu của người KN và kết quả xác minh nội dung KN còn khác nhau.
Ðồng thời, để đảm bảo cho việc đối thoại trong quá trình giải quyết KN được thực hiện một cách thống nhất giữa các địa phương, các ngành, các cấp, Luật KN cũng quy định cụ thể về hoạt động này. Theo đó, trước khi tổ chức đối thoại, người giải quyết KN có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với người KN, người bị KN, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức có liên quan biết thời gian, địa điểm, nội dung việc đối thoại. Khi đối thoại, người giải quyết KN phải nêu rõ nội dung cần đối thoại, kết quả xác minh nội dung KN; người tham gia đối thoại có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ liên quan đến KN và yêu cầu của mình. Việc đối thoại phải được lập thành biên bản; biên bản phải ghi rõ ý kiến của những người tham gia, kết quả đối thoại, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tham gia; trường hợp người tham gia đối thoại không ký, điểm chỉ xác nhận thì phải ghi rõ lý do; biên bản này được lưu vào hồ sơ vụ việc KN. Các quy định cụ thể này đã xác định rõ trách nhiệm của người giải quyết KN và quyền của các bên tham gia đối thoại. Qua đó, đảm bảo cho việc tổ chức đối thoại nói riêng, việc giải quyết KN nói chung được thực hiện với tinh thần khách quan, dân chủ; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong vụ việc KN.
Ðối với thủ tục giải quyết KN lần hai, Luật KN 2011 đã khắc phục được bất cập trong quy định của Luật KN, tố cáo 1998. Theo đó, quy định về đối thoại lần hai không còn mang tính chất tuỳ nghi mà là thủ tục bắt buộc. Ðiều 39 của Luật KN quy định: “Trong quá trình giải quyết KN lần hai, người giải quyết KN tiến hành đối thoại với người KN, người bị KN, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung KN, yêu cầu, hướng giải quyết của người KN”. Quy định này nhằm ràng buộc trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết KN trong việc trực tiếp lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người KN, từ đó ra quyết định giải quyết chính xác, kịp thời.
Tuy nhiên, thời gian qua, việc thực hiện quy định về tổ chức đối thoại lần hai theo Ðiều 39 của Luật KN đã bộc lộ những khó khăn, vướng mắc nhất định. Thực tế cho thấy, người giải quyết KN lần hai chủ yếu là Chủ tịch UBND cấp huyện và Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Ở một số tỉnh, thành phố, số lượng vụ việc phải giải quyết KN lần hai khá nhiều, chẳng hạn như TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. UBND 2 thành phố này từng có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ và Tổng Thanh tra Chính phủ kiến nghị cho phép được thực hiện cơ chế uỷ quyền đối thoại trong giải quyết KN. Tuy nhiên, để bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động giải quyết KN, tố cáo, đề nghị trên của UBND TP Hồ Chí Minh và cả UBND TP Hà Nội sau đó đều không được chấp nhận, vì điều đó trái với quy định của Luật KN. Bản thân Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 quy định người giải quyết hoặc người có trách nhiệm thẩm tra xác minh thực hiện việc đối thoại, cũng đã bị cơ quan của Quốc hội lưu ý qua công tác giám sát và sau đó cũng đã phải sửa lại cho phù hợp với tinh thần của Luật KN.
Trên thực tế, việc đối thoại đã được tổ chức không chỉ một lần mà có thể nhiều lần đối với những vụ việc phức tạp, đông người, nhất là liên quan đến các vụ án thu hồi đất hoặc vấn đề liên quan đến an sinh xã hội, môi trường ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân trong một địa bàn, nhưng việc đối thoại ở đây mới chủ yếu dừng lại ở việc lắng nghe, trao đổi, ghi nhận ý kiến của những người KN chứ chưa hẳn đã là trực tiếp giải quyết vụ việc, không giống như những gì mà pháp luật hướng tới. Các cuộc đối thoại để giải quyết KN như luật quy định chỉ với thành phần nhất định và không được công khai, cho nên sự giám sát của người dân đối với việc thực hiện trách nhiệm này cũng sẽ bị hạn chế./.
Phạm Quốc Sử
BÀI 2: XIN LỖI CÔNG DÂN