ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 20-9-24 20:29:56
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Lắng nghe, kịp thời giải quyết bức xúc của dân - Bài 1: Ðối thoại để hiểu dân

Báo Cà Mau (CMO) Ðối thoại, tiếp xúc với Nhân dân là hoạt động rất quan trọng, giúp các cấp uỷ Ðảng, chính quyền thấy rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn Nhân dân đang quan tâm gì, bức xúc gì, hài lòng việc gì. Có khi cùng một vấn đề nhưng có nhiều quan điểm, cách nhìn khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Chỉ thông qua các cuộc tranh luận, trao đổi trực tiếp, người dân có thể trình bày ý kiến của mình một cách tỉ mỉ; chủ thể được tiếp thu và giải đáp kịp thời những vấn đề mà người dân đang quan tâm, từ đó mà các vấn đề được giải quyết tận gốc rễ. Nhờ đó, người dân được giải toả tâm lý về những vấn đề còn đang băn khoăn, khúc mắc.

Cũng thông qua buổi tiếp xúc, lắng nghe Nhân dân, từng cơ quan chức năng sẽ thấy rõ hạn chế, trách nhiệm của mình để khắc phục, giải quyết những vấn đề phát sinh. Ðây chính là tiền đề rất quan trọng nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức cũng như hành động trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.

Ðối thoại nhằm mục đích công khai, minh bạch hồ sơ vụ việc, tiếp nhận đầy đủ các thông tin liên quan đến việc giải quyết, làm rõ nội dung, yêu cầu của người khiếu nại (KN), người bị KN, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về vụ việc giữa các bên và hướng giải quyết KN. Việc trao đổi, giải thích trực tiếp nhằm tạo sự thống nhất nhận thức quy định của pháp luật, đồng thuận giữa các bên trong phương án giải quyết vụ việc trên cơ sở tôn trọng thực tế khách quan, đảm bảo đúng chính sách, pháp luật, có tính khả thi và hướng đến kết thúc vụ việc tranh chấp giữa cơ quan hành chính và người dân trên thực tế.

Phó giám đốc Sở Tư pháp Cà Mau Phạm Quốc Sử và Chủ tịch UBND huyện Ngọc Hiển Trần Hoàng Lạc đối thoại với công dân Tạ Hoàng Thơm (ấp Khai Long, xã Ðất Mũi) ngày 12/5 vừa qua. Ảnh: H.PHƯỢNG

Tầm quan trọng của đối thoại

Thông qua hoạt động đối thoại, người giải quyết KN sẽ hiểu rõ hơn về nội dung vụ việc KN, yêu cầu của người KN, trên cơ sở đó có hướng giải quyết KN một cách khách quan, đúng đắn.

Tầm quan trọng của đối thoại đã được nhắc đến trong Nghị quyết 39/2012/QH13 ngày 23/11/2012 như sau: “Lãnh đạo các cấp chủ động, làm tốt công tác đối thoại trực tiếp với người KN, tố cáo, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân".

Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết KN, tố cáo cũng nêu rõ: "Người đứng đầu tổ chức Ðảng, Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về tình hình KN, tố cáo và công tác tiếp công dân, giải quyết KN, tố cáo trong phạm vi địa bàn, lĩnh vực phụ trách. Thực hiện nghiêm chế độ tiếp công dân theo quy định của Luật Tiếp công dân, gắn việc tiếp công dân với xử lý, giải quyết KN, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Chú trọng tiếp công dân tại cơ sở, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người dân. Chủ động đối thoại, vận động, thuyết phục công dân để giải quyết, tháo gỡ triệt để khiếu kiện, bức xúc của công dân".

Nhiều trường hợp người KN khi tổ chức đối thoại với cơ quan Nhà nước đã nhận thức rõ sự việc KN của mình không đúng pháp luật nên tự nguyện rút đơn KN. Hoặc đối với người có thẩm quyền giải quyết KN, sẽ phát hiện những quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý hoặc các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cá nhân mình là trái pháp luật, từ đó có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp đối với người KN nói riêng và đối tượng chịu sự tác động của quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật gây ra.

Mặt khác, khi người có thẩm quyền giải quyết KN tổ chức đối thoại với người KN sẽ tìm được tiếng nói chung, giúp việc giải quyết KN một cách hiệu quả, nhanh chóng, tránh tình trạng người KN khiếu nại tiếp. Qua tổ chức đối thoại, có thể người có thẩm quyền và người KN thoả thuận được phương án giải quyết vụ việc KN mà không cần thiết phải ra quyết định giải quyết KN. Có rất nhiều dẫn chứng trên thực tế cho việc này.

Cụ thể như tại tỉnh Bình Phước vài năm trước đây, Chủ tịch UBND tỉnh có buổi đối thoại với 9 hộ dân ở Khu phố 5, phường Long Phước để giải quyết KN của người dân trong việc bồi thường, giải phóng mặt bằng thuộc Dự án khu trung tâm hành chính và khu đô thị mới thị xã Phước Long. Tiếp đó là đối thoại với người dân thị xã Ðồng Xoài kể cả trong ngày nghỉ và buổi tối để có thể giải quyết những kiến nghị của dân sớm nhất, đồng thời giải quyết các điểm nóng về khiếu tố đất đai trên địa bàn thuộc trách nhiệm giải quyết của UBND tỉnh.

Có thể nói, việc đối thoại giữa người đứng đầu chính quyền với cộng đồng dân cư về vấn đề liên quan đến lợi ích của họ, đồng thời lắng nghe để giải quyết các KN, kiến nghị, phản ánh nói chung, nhiều khi giúp tìm ra phương hướng, giải pháp xử lý tốt hơn là đi đến một quyết định cụ thể.

Còn nhiều khó khăn, vướng mắc

Xác định tầm quan trọng đó của hoạt động đối thoại, Luật KN, tố cáo năm 1998 và Luật KN năm 2011 đều quy định về việc đối thoại là một thủ tục trong quá trình giải quyết KN.

Tuy nhiên, hai luật này quy định khác nhau về việc đối thoại. Nếu như Luật KN, tố cáo năm 1998 quy định người giải quyết KN phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người KN, người bị KN (Ðiều 37), thì Luật KN năm 2011 đã có sự thay đổi khi quy định về vấn đề này. Ðiều 30 của Luật KN năm 2011 quy định, đối với giải quyết KN lần đầu, nếu yêu cầu của người KN và kết quả xác minh nội dung KN còn khác nhau thì người giải quyết KN tổ chức đối thoại với người KN, người bị KN, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung KN, yêu cầu và hướng giải quyết KN. Như vậy, với quy định này, trong thủ tục giải quyết KN lần đầu, việc tổ chức đối thoại không mang tính chất bắt buộc đối với mọi trường hợp. Hoạt động này chỉ phải thực hiện trong trường hợp yêu cầu của người KN và kết quả xác minh nội dung KN còn khác nhau.

Ðồng thời, để đảm bảo cho việc đối thoại trong quá trình giải quyết KN được thực hiện một cách thống nhất giữa các địa phương, các ngành, các cấp, Luật KN cũng quy định cụ thể về hoạt động này. Theo đó, trước khi tổ chức đối thoại, người giải quyết KN có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với người KN, người bị KN, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức có liên quan biết thời gian, địa điểm, nội dung việc đối thoại. Khi đối thoại, người giải quyết KN phải nêu rõ nội dung cần đối thoại, kết quả xác minh nội dung KN; người tham gia đối thoại có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ liên quan đến KN và yêu cầu của mình. Việc đối thoại phải được lập thành biên bản; biên bản phải ghi rõ ý kiến của những người tham gia, kết quả đối thoại, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tham gia; trường hợp người tham gia đối thoại không ký, điểm chỉ xác nhận thì phải ghi rõ lý do; biên bản này được lưu vào hồ sơ vụ việc KN. Các quy định cụ thể này đã xác định rõ trách nhiệm của người giải quyết KN và quyền của các bên tham gia đối thoại. Qua đó, đảm bảo cho việc tổ chức đối thoại nói riêng, việc giải quyết KN nói chung được thực hiện với tinh thần khách quan, dân chủ; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong vụ việc KN.

Ðối với thủ tục giải quyết KN lần hai, Luật KN 2011 đã khắc phục được bất cập trong quy định của Luật KN, tố cáo 1998. Theo đó, quy định về đối thoại lần hai không còn mang tính chất tuỳ nghi mà là thủ tục bắt buộc. Ðiều 39 của Luật KN quy định: “Trong quá trình giải quyết KN lần hai, người giải quyết KN tiến hành đối thoại với người KN, người bị KN, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung KN, yêu cầu, hướng giải quyết của người KN”. Quy định này nhằm ràng buộc trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết KN trong việc trực tiếp lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người KN, từ đó ra quyết định giải quyết chính xác, kịp thời.

Tuy nhiên, thời gian qua, việc thực hiện quy định về tổ chức đối thoại lần hai theo Ðiều 39 của Luật KN đã bộc lộ những khó khăn, vướng mắc nhất định. Thực tế cho thấy, người giải quyết KN lần hai chủ yếu là Chủ tịch UBND cấp huyện và Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Ở một số tỉnh, thành phố, số lượng vụ việc phải giải quyết KN lần hai khá nhiều, chẳng hạn như TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. UBND 2 thành phố này từng có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ và Tổng Thanh tra Chính phủ kiến nghị cho phép được thực hiện cơ chế uỷ quyền đối thoại trong giải quyết KN. Tuy nhiên, để bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động giải quyết KN, tố cáo, đề nghị trên của UBND TP Hồ Chí Minh và cả UBND TP Hà Nội sau đó đều không được chấp nhận, vì điều đó trái với quy định của Luật KN. Bản thân Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 quy định người giải quyết hoặc người có trách nhiệm thẩm tra xác minh thực hiện việc đối thoại, cũng đã bị cơ quan của Quốc hội lưu ý qua công tác giám sát và sau đó cũng đã phải sửa lại cho phù hợp với tinh thần của Luật KN.

Trên thực tế, việc đối thoại đã được tổ chức không chỉ một lần mà có thể nhiều lần đối với những vụ việc phức tạp, đông người, nhất là liên quan đến các vụ án thu hồi đất hoặc vấn đề liên quan đến an sinh xã hội, môi trường ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân trong một địa bàn, nhưng việc đối thoại ở đây mới chủ yếu dừng lại ở việc lắng nghe, trao đổi, ghi nhận ý kiến của những người KN chứ chưa hẳn đã là trực tiếp giải quyết vụ việc, không giống như những gì mà pháp luật hướng tới. Các cuộc đối thoại để giải quyết KN như luật quy định chỉ với thành phần nhất định và không được công khai, cho nên sự giám sát của người dân đối với việc thực hiện trách nhiệm này cũng sẽ bị hạn chế./.

 

Phạm Quốc Sử

BÀI 2: XIN LỖI CÔNG DÂN

 

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực

Tôm, cua Cà Mau là 2 ngành hàng chủ lực nâng cao đời sống của đại bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung. Tuy nhiên, những năm gần đây, 2 mặt hàng này đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự thay đổi nhanh, toàn diện để tạo đột phá và phát triển bền vững.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài cuối: Xứng đáng với vai trò, trọng trách

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HÐND 3 cấp tại Cà Mau đã trở thành quyết tâm, xu thế để đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xứng đáng với vai trò, trọng trách được cử tri tin tưởng trao gởi. HÐND các cấp của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đang ra sức phụng sự, phấn đấu, cống hiến vì mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 3: Tiếp xúc cử tri “đúng người, đúng việc, đúng vai”

Ông Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh Cà Mau, từng rất trăn trở: “Tiếp xúc cử tri mà cán bộ nhiều hơn dân thì chưa đúng người, đúng việc, đúng vai. Tình trạng này phải chấn chỉnh ngay, phải để tiếp xúc cử tri là nơi thể hiện quyền làm chủ thật sự, thực chất của Nhân dân; để bà con cử tri đóng góp ý kiến, đề đạt tâm tư, nguyện vọng và hiến kế góp phần vào sự ổn định, phát triển chung của địa phương”.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 2: Giám sát có trọng tâm, trọng điểm

Giám sát là hoạt động quan trọng của HÐND các cấp, góp phần xác định vị thế, năng lực hoạt động của đại biểu dân cử, cơ quan dân cử, tạo dựng niềm tin và sự tín nhiệm đối với cử tri. Giám sát có trọng tâm, trọng điểm; đa dạng hình thức giám sát, được đo đếm bằng kết quả thực tế, sự đánh giá của cử tri chính là nỗ lực, mục tiêu mà các cấp HÐND tỉnh Cà Mau đang dồn sức thực hiện.

Hành trình của khát vọng và hành động

HÐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân; thay mặt Nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương bằng việc ban hành các nghị quyết tại các kỳ họp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định pháp luật.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài 2: Linh hoạt với những mô hình hiệu quả

Giai đoạn 2020-2025, Cà Mau có nhiều cách làm chủ động, linh hoạt trong thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi, chuyển đổi nghề hiệu quả, hàng loạt kế hoạch đào tạo lao động tại địa phương đã giúp người dân vượt khó vươn lên, mang tính thực tiễn cao.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài cuối: Nhìn từ thực tế

Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, đến năm 2022 Trung ương mới bắt đầu phân bổ kế hoạch vốn và ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, các hướng dẫn từ Trung ương chưa đầy đủ, kịp thời nhưng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HÐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành cấp tỉnh, cùng với sự nỗ lực của địa phương và người dân, các hoạt động thuộc chương trình đã và đang triển khai thực hiện cơ bản đạt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

“Thắng giặc nghèo” không khó

Với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, nhất là sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của người dân, các chính sách giảm nghèo được triển khai thực hiện đồng bộ trên địa bàn tỉnh, mang lại kết quả tích cực. Nhiều hộ nghèo, cận nghèo sau khi thoát nghèo có cuộc sống ổn định, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng lên.