ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 23-11-24 23:49:29
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Lụt về lại nhớ sông xưa

Báo Cà Mau (CMO) Không biết có dòng sông nào như sông Trẹm quê tôi, mỗi năm 2 mùa mưa, nắng, thì dòng sông cũng có 2 mùa, nước mặn và nước ngọt. Từ nhỏ tôi đã nhận ra một điều, là dù vào mùa nào, dòng sông Trẹm vẫn như người mẹ tảo tần, luôn mang trong lòng mình những nguồn lợi thuỷ sản phong phú để ban tặng cho cuộc sống những cư dân hai bờ …

Người dân quê tôi quen với tên gọi sông Trẹm, nhưng tên đầy đủ của dòng sông là sông Trèm Trẹm (cũng có tài liệu gọi là sông Tràm Trẹm). Nhưng tôi không đi sâu vào tên gọi của dòng sông, chỉ muốn giới thiệu với các bạn về nguồn lợi thuỷ sản phong phú và những cách đánh bắt tôm cá từ bao đời nay qua 2 mùa nắng, mưa mỗi năm trên dòng sông Trẹm. Có thể là một vài chi tiết tôi kể giờ đây đã không còn, đã lạ lẫm với lớp người tuổi trẻ ngày nay, bởi thời gian đã làm thay đổi nhiều thứ.

Sông Trẹm hôm nay.                                                                              Ảnh: CHÍ DIỆN

Sông Trẹm năm có 2 mùa, dòng nước mang vị mặn, ngọt khác nhau. Mùa nước mặn thường bắt đầu từ khoảng tháng 11 âm lịch và kết thúc vào tháng 4 năm sau, khi mùa mưa đến và dòng sông cũng chuyển sang mùa nước ngọt. Dù là vào mùa nước mặn hay nước ngọt, sông Trẹm khi xưa luôn dồi dào tôm cá. Giờ tôi vẫn còn nhớ rõ những cách và dụng cụ bắt tôm, cá trên sông của người dân. Có thể kể ra đây khá đầy đủ, như làm nò, đặt đó, đặt vó, đi trễ và những cách đánh bắt thông thường như nhiều nơi khác, như đặt lọp, đặt lờ, giăng lưới, cắm câu, đi câu… Tuỳ theo mùa nước ngọt hay nước mặn trên sông mà bà con thay đổi cách bắt cá.

Vào mùa mưa, khi nước đã tràn đồng, thì dòng sông Trẹm cũng bắt đầu từ nước mặn chuyển dần sang nước ngọt. Khi vào mùa nước ngọt, bông súng mọc dài theo 2 bên bờ sông. Ngày còn nhỏ, tôi đã biết bơi xuồng đi giăng lưới theo làn bông súng. Bông súng mọc ven sông như 2 dải lụa trải dài một màu xanh pha lốm đốm những cánh hoa nhỏ dịu dàng nhấp nhô theo sóng nước. Cá rô, cá lóc, cá trê ít nhiều cũng có cho những bữa ăn gia đình. Những gia đình ở quê xa thị trấn thì làm gì có chuyện mua cá! Nhà nào nhiều người giỏi bắt cá được nhiều, ăn không hết còn mang ra chợ bán như một nguồn thu nhập thường xuyên của gia đình.

Tôi thích nhất là mùa nước lụt, thường vào tháng 8, tháng 9 âm lịch. Mưa nhiều làm con nước sông từ rừng U Minh đổ về pha màu đỏ của phù sa. Nước lên tràn đồng, ngập luôn cả vườn nhà, ngập con đường đất ven sông. Quê tôi gọi mùa nước lên như vậy là “nước lụt”, chứ không phải nước lũ như ở miền Trung, miền Bắc. Nước cứ lên từ từ mỗi ngày một ít, chầm chậm, hiền hoà, như sự bù đắp của thiên nhiên cho con người bằng những hạt phù sa màu mỡ cho vườn tược, đồng ruộng, và bổ sung thêm nguồn lợi đã vơi đi sau một năm sinh sống. Đợt lụt hàng năm có khi tuần lễ, 10 ngày mới rút.

Những ngày nước lụt, cá rô tôm tích trên rừng phía thượng nguồn theo con nước đỏ màu phù sa, men theo viền bông súng 2 bên sông xuôi về hạ nguồn. Bên bờ sông, bà con bắt cá rô tôm tích bằng cách đặt vó hoặc giăng lưới mùng. Những bầy cá tôm tích thoát được bàn tay của con người thì men theo các ngõ lên đồng, trở thành những con cá rô đồng béo ngon, hấp dẫn vào mùa gặt. Những con rô con mùa nước lụt lại trở thành nguồn nguyên liệu để làm mắm cá rô đồng vào mùa nước rút. Mùa lụt, nhà nhà tha hồ ăn cá rô tôm tích với đủ món chế biến dân dã mà ngon nhớ đời, như cá rô tôm tích chiên giòn hoặc lăn bột chiên, hấp cuốn bánh tráng, kho mắm đồng hay đơn giản như kho quẹt mỡ hành đều ngon…

Qua mùa cá tôm tích, lúc này các loại cá nước ngọt trên sông đã có nhiều. Buổi sáng, tôi thường hay đi nhấp cá lóc dài theo con lộ nhỏ ven sông, hoặc giăng lưới, cắm câu, đặt lờ, đặt lọp… Nếu chịu khó một chút thì lúc nào nhà cũng không thiếu cá đồng.

Khi những cơn mưa cuối mùa kết thúc thì gió bấc bắt đầu thổi về. Theo chế độ thuỷ triều và theo mực nước trên sông Trẹm xuống dần, nước mặn từ biển dần xâm nhập vào sông. Thời điểm ấy là con sông dần chuyển sang mùa nước mặn. Dòng sông Trẹm lại có nhiều loài thuỷ sản của nước mặn, như cá chẽm, cá đối, cá rô biển, cá nâu… và dĩ nhiên là có nhiều tôm tép với cua biển theo nguồn nước mặn vào sông sinh sôi. Khi dòng sông vào mùa nước mặn thì dụng cụ bắt tôm cá của bà con cũng thay đổi theo. Nhiều giàn lưới cá chẽm hay lưới cá đối được bủa ngay trên dòng sông, chứ không phải ven bờ như lưới cá đồng. Nhưng có lẽ dòng sông trở nên nhộn nhịp nhất là vào ban đêm. Những chiếc đèn đó, rồi đèn vó đặt tép giăng giăng dọc theo bờ sông, xen những chiếc đèn di chuyển của xuồng đi trễ tạo cho người ta cảm nhận là dòng sông Trẹm vẫn không ngủ và vắt sức mình cho cuộc mưu sinh của người dân mà miền sông nước cưu mang… Nhà có vài miệng đó, vài chiếc vó, và một đêm thức trắng trong mùa nước mặn là có thể kiếm được chục ký tép bạc. Dĩ nhiên là đem bán ở chợ. Mùa lúa đã gặt xong, dòng sông Trẹm mùa nước mặn cũng là nơi mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho đời sống người nông dân.

Đến khi những trận mưa lớn đầu mùa làm nổi nước đồng, dòng sông lại chuyển mình sang mùa nước ngọt. Bước chuyển mình ấy, tôi nghĩ  không nhẹ nhàng chút nào, mà cảm tưởng như dòng sông oằn mình gánh chịu một sự trở mình để chuyển sang trạng thái mới trong sự tuần hoàn của thiên nhiên… Đó là khi những cơn mưa đầu mùa trút xuống, nước mưa hoà vào nước mặn trên sông làm cho nước “đổ phèn” vàng chạch. Bị thay đổi nguồn nước, tôm cá trên sông bị “sốc”, dật dờ dạt vào ven bờ, có khi bơi xuồng mà bắt. Dân quê tôi gọi khoảng thời gian chừng tuần lễ chuyển mùa như thế, là “mùa cá dại” trên sông.

Tôi chưa kể về một dụng cụ bắt cá tôm mà cả 2 mùa nước mặn hay nước ngọt trên sông đều có. Đó là những cái nò. Nò làm bằng nhiều tấm đăng sậy, bện bằng dây choại khô. Ven bờ ở một khúc sông nào đó, những người có kinh nghiệm nhìn là biết luồng cá di chuyển, và đặt những tấm đăng theo bộ khung là những cây tre dài, hoặc cây tràm tuỳ theo vị trí và độ sâu ven sông, với nhiều lớp “thiên la địa võng” nhưng bài bản, để cuối cùng cá lần theo đăng khi di chuyển, chui vào rọ mà bắt. Làm nò thì có thể nói là mùa nào, trên sông có loại gì thì bắt được loại đó. Những con to như cá chẽm, cá lóc, cá rô, đến cá đối, tôm càng, cua biển… Những người dân ở ven sông, nhưng không phải ai cũng rành làm nò, bởi nếu xây nò không đúng kỹ thuật hay không hợp vị trí, thì cũng chẳng bắt được bao nhiêu tôm cá. Những người nổi tiếng về xây nò ở Thới Bình mà tôi biết và còn nhớ đến giờ, những ông “vua nò” chính hiệu, như ông Ba Trộm nhà ở gần đình Thới Bình (nay ông đã mất), và ông Tư Hiếm, hiện vẫn còn sống, nhà ở vàm Rạch Ông. Ngày xưa, nò của người nào, ở vị trí khúc sông nào, thì như mặc định là vị trí ấy thuộc về người đó làm nò, không ai xâm lấn.

Bây giờ trên dòng sông Trẹm quê tôi, nhiều phương tiện, dụng cụ bắt cá tôm như ngày xưa không còn nữa. Những thế hệ sau tôi không còn biết những cái nò, những chiếc đó đặt tép, những chiếc xuồng trễ ban đêm, những ánh đèn dầu hoả lấp lánh trong đêm tối… trên con sông Trẹm quê nhà. Kể cả những tấm hình trên mạng cũng không tìm thấy. Có lẽ ngày nay, nguồn cá tôm trên sông đã cạn kiệt, biến đổi khí hậu làm cho mùa lụt hàng năm nước không còn lên cao, tràn đồng…  Và người ta dần tìm ra những cách bắt tôm cá đơn giản và hiệu quả hơn để thay thế cách của ngày xưa đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp.

Dòng sông Trẹm bây giờ lặng lẽ và trơ trọi, như đã lặng lẽ làm điểm tựa sinh sống cho những cư dân từ đời này sang đời khác. Và mùa lụt năm nay, tôi đọc tin khí tượng thuỷ văn cho biết lượng mưa trên nguồn không nhiều, không biết nước lụt có dâng tràn đồng hay không, để dòng sông chở màu nước đỏ phù sa và những đàn cá rô tôm tích từ rừng về bồi đắp, bổ sung cho cuộc sống của người dân miền sông nước quê tôi…

Nguyễn Sông Trẹm

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.