ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 10-5-25 13:47:56
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Lụt về lại nhớ sông xưa

Báo Cà Mau (CMO) Không biết có dòng sông nào như sông Trẹm quê tôi, mỗi năm 2 mùa mưa, nắng, thì dòng sông cũng có 2 mùa, nước mặn và nước ngọt. Từ nhỏ tôi đã nhận ra một điều, là dù vào mùa nào, dòng sông Trẹm vẫn như người mẹ tảo tần, luôn mang trong lòng mình những nguồn lợi thuỷ sản phong phú để ban tặng cho cuộc sống những cư dân hai bờ …

Người dân quê tôi quen với tên gọi sông Trẹm, nhưng tên đầy đủ của dòng sông là sông Trèm Trẹm (cũng có tài liệu gọi là sông Tràm Trẹm). Nhưng tôi không đi sâu vào tên gọi của dòng sông, chỉ muốn giới thiệu với các bạn về nguồn lợi thuỷ sản phong phú và những cách đánh bắt tôm cá từ bao đời nay qua 2 mùa nắng, mưa mỗi năm trên dòng sông Trẹm. Có thể là một vài chi tiết tôi kể giờ đây đã không còn, đã lạ lẫm với lớp người tuổi trẻ ngày nay, bởi thời gian đã làm thay đổi nhiều thứ.

Sông Trẹm hôm nay.                                                                              Ảnh: CHÍ DIỆN

Sông Trẹm năm có 2 mùa, dòng nước mang vị mặn, ngọt khác nhau. Mùa nước mặn thường bắt đầu từ khoảng tháng 11 âm lịch và kết thúc vào tháng 4 năm sau, khi mùa mưa đến và dòng sông cũng chuyển sang mùa nước ngọt. Dù là vào mùa nước mặn hay nước ngọt, sông Trẹm khi xưa luôn dồi dào tôm cá. Giờ tôi vẫn còn nhớ rõ những cách và dụng cụ bắt tôm, cá trên sông của người dân. Có thể kể ra đây khá đầy đủ, như làm nò, đặt đó, đặt vó, đi trễ và những cách đánh bắt thông thường như nhiều nơi khác, như đặt lọp, đặt lờ, giăng lưới, cắm câu, đi câu… Tuỳ theo mùa nước ngọt hay nước mặn trên sông mà bà con thay đổi cách bắt cá.

Vào mùa mưa, khi nước đã tràn đồng, thì dòng sông Trẹm cũng bắt đầu từ nước mặn chuyển dần sang nước ngọt. Khi vào mùa nước ngọt, bông súng mọc dài theo 2 bên bờ sông. Ngày còn nhỏ, tôi đã biết bơi xuồng đi giăng lưới theo làn bông súng. Bông súng mọc ven sông như 2 dải lụa trải dài một màu xanh pha lốm đốm những cánh hoa nhỏ dịu dàng nhấp nhô theo sóng nước. Cá rô, cá lóc, cá trê ít nhiều cũng có cho những bữa ăn gia đình. Những gia đình ở quê xa thị trấn thì làm gì có chuyện mua cá! Nhà nào nhiều người giỏi bắt cá được nhiều, ăn không hết còn mang ra chợ bán như một nguồn thu nhập thường xuyên của gia đình.

Tôi thích nhất là mùa nước lụt, thường vào tháng 8, tháng 9 âm lịch. Mưa nhiều làm con nước sông từ rừng U Minh đổ về pha màu đỏ của phù sa. Nước lên tràn đồng, ngập luôn cả vườn nhà, ngập con đường đất ven sông. Quê tôi gọi mùa nước lên như vậy là “nước lụt”, chứ không phải nước lũ như ở miền Trung, miền Bắc. Nước cứ lên từ từ mỗi ngày một ít, chầm chậm, hiền hoà, như sự bù đắp của thiên nhiên cho con người bằng những hạt phù sa màu mỡ cho vườn tược, đồng ruộng, và bổ sung thêm nguồn lợi đã vơi đi sau một năm sinh sống. Đợt lụt hàng năm có khi tuần lễ, 10 ngày mới rút.

Những ngày nước lụt, cá rô tôm tích trên rừng phía thượng nguồn theo con nước đỏ màu phù sa, men theo viền bông súng 2 bên sông xuôi về hạ nguồn. Bên bờ sông, bà con bắt cá rô tôm tích bằng cách đặt vó hoặc giăng lưới mùng. Những bầy cá tôm tích thoát được bàn tay của con người thì men theo các ngõ lên đồng, trở thành những con cá rô đồng béo ngon, hấp dẫn vào mùa gặt. Những con rô con mùa nước lụt lại trở thành nguồn nguyên liệu để làm mắm cá rô đồng vào mùa nước rút. Mùa lụt, nhà nhà tha hồ ăn cá rô tôm tích với đủ món chế biến dân dã mà ngon nhớ đời, như cá rô tôm tích chiên giòn hoặc lăn bột chiên, hấp cuốn bánh tráng, kho mắm đồng hay đơn giản như kho quẹt mỡ hành đều ngon…

Qua mùa cá tôm tích, lúc này các loại cá nước ngọt trên sông đã có nhiều. Buổi sáng, tôi thường hay đi nhấp cá lóc dài theo con lộ nhỏ ven sông, hoặc giăng lưới, cắm câu, đặt lờ, đặt lọp… Nếu chịu khó một chút thì lúc nào nhà cũng không thiếu cá đồng.

Khi những cơn mưa cuối mùa kết thúc thì gió bấc bắt đầu thổi về. Theo chế độ thuỷ triều và theo mực nước trên sông Trẹm xuống dần, nước mặn từ biển dần xâm nhập vào sông. Thời điểm ấy là con sông dần chuyển sang mùa nước mặn. Dòng sông Trẹm lại có nhiều loài thuỷ sản của nước mặn, như cá chẽm, cá đối, cá rô biển, cá nâu… và dĩ nhiên là có nhiều tôm tép với cua biển theo nguồn nước mặn vào sông sinh sôi. Khi dòng sông vào mùa nước mặn thì dụng cụ bắt tôm cá của bà con cũng thay đổi theo. Nhiều giàn lưới cá chẽm hay lưới cá đối được bủa ngay trên dòng sông, chứ không phải ven bờ như lưới cá đồng. Nhưng có lẽ dòng sông trở nên nhộn nhịp nhất là vào ban đêm. Những chiếc đèn đó, rồi đèn vó đặt tép giăng giăng dọc theo bờ sông, xen những chiếc đèn di chuyển của xuồng đi trễ tạo cho người ta cảm nhận là dòng sông Trẹm vẫn không ngủ và vắt sức mình cho cuộc mưu sinh của người dân mà miền sông nước cưu mang… Nhà có vài miệng đó, vài chiếc vó, và một đêm thức trắng trong mùa nước mặn là có thể kiếm được chục ký tép bạc. Dĩ nhiên là đem bán ở chợ. Mùa lúa đã gặt xong, dòng sông Trẹm mùa nước mặn cũng là nơi mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho đời sống người nông dân.

Đến khi những trận mưa lớn đầu mùa làm nổi nước đồng, dòng sông lại chuyển mình sang mùa nước ngọt. Bước chuyển mình ấy, tôi nghĩ  không nhẹ nhàng chút nào, mà cảm tưởng như dòng sông oằn mình gánh chịu một sự trở mình để chuyển sang trạng thái mới trong sự tuần hoàn của thiên nhiên… Đó là khi những cơn mưa đầu mùa trút xuống, nước mưa hoà vào nước mặn trên sông làm cho nước “đổ phèn” vàng chạch. Bị thay đổi nguồn nước, tôm cá trên sông bị “sốc”, dật dờ dạt vào ven bờ, có khi bơi xuồng mà bắt. Dân quê tôi gọi khoảng thời gian chừng tuần lễ chuyển mùa như thế, là “mùa cá dại” trên sông.

Tôi chưa kể về một dụng cụ bắt cá tôm mà cả 2 mùa nước mặn hay nước ngọt trên sông đều có. Đó là những cái nò. Nò làm bằng nhiều tấm đăng sậy, bện bằng dây choại khô. Ven bờ ở một khúc sông nào đó, những người có kinh nghiệm nhìn là biết luồng cá di chuyển, và đặt những tấm đăng theo bộ khung là những cây tre dài, hoặc cây tràm tuỳ theo vị trí và độ sâu ven sông, với nhiều lớp “thiên la địa võng” nhưng bài bản, để cuối cùng cá lần theo đăng khi di chuyển, chui vào rọ mà bắt. Làm nò thì có thể nói là mùa nào, trên sông có loại gì thì bắt được loại đó. Những con to như cá chẽm, cá lóc, cá rô, đến cá đối, tôm càng, cua biển… Những người dân ở ven sông, nhưng không phải ai cũng rành làm nò, bởi nếu xây nò không đúng kỹ thuật hay không hợp vị trí, thì cũng chẳng bắt được bao nhiêu tôm cá. Những người nổi tiếng về xây nò ở Thới Bình mà tôi biết và còn nhớ đến giờ, những ông “vua nò” chính hiệu, như ông Ba Trộm nhà ở gần đình Thới Bình (nay ông đã mất), và ông Tư Hiếm, hiện vẫn còn sống, nhà ở vàm Rạch Ông. Ngày xưa, nò của người nào, ở vị trí khúc sông nào, thì như mặc định là vị trí ấy thuộc về người đó làm nò, không ai xâm lấn.

Bây giờ trên dòng sông Trẹm quê tôi, nhiều phương tiện, dụng cụ bắt cá tôm như ngày xưa không còn nữa. Những thế hệ sau tôi không còn biết những cái nò, những chiếc đó đặt tép, những chiếc xuồng trễ ban đêm, những ánh đèn dầu hoả lấp lánh trong đêm tối… trên con sông Trẹm quê nhà. Kể cả những tấm hình trên mạng cũng không tìm thấy. Có lẽ ngày nay, nguồn cá tôm trên sông đã cạn kiệt, biến đổi khí hậu làm cho mùa lụt hàng năm nước không còn lên cao, tràn đồng…  Và người ta dần tìm ra những cách bắt tôm cá đơn giản và hiệu quả hơn để thay thế cách của ngày xưa đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp.

Dòng sông Trẹm bây giờ lặng lẽ và trơ trọi, như đã lặng lẽ làm điểm tựa sinh sống cho những cư dân từ đời này sang đời khác. Và mùa lụt năm nay, tôi đọc tin khí tượng thuỷ văn cho biết lượng mưa trên nguồn không nhiều, không biết nước lụt có dâng tràn đồng hay không, để dòng sông chở màu nước đỏ phù sa và những đàn cá rô tôm tích từ rừng về bồi đắp, bổ sung cho cuộc sống của người dân miền sông nước quê tôi…

Nguyễn Sông Trẹm

Cà Mau - Ðịa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài cuối: Bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc

Cà Mau hôm nay đổi mới, phát triển từng ngày. Những cán bộ lão thành cách mạng, những bậc cao niên ở Cà Mau mà chúng tôi có dịp gặp, đã trải qua bom đạn chiến tranh, trải qua những ngày tháng Cà Mau còn đầy khó khăn, tất cả đều nói rằng, Cà Mau mình bây giờ đã phát triển nhiều lắm, đời sống Nhân dân đã sung túc hơn trước bội phần. Từ vùng đất hoang vu, nê địa; từ những đau thương, mất mát lớn lao trong kháng chiến; đến nay, Cà Mau đã vươn mình đi lên bằng sức vóc mới, thế và lực mới, để chặng đường phát triển tương lai sẽ làm bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 4: Vùng đất của những sản vật vang danh

Dù lên rừng hay xuống biển, Cà Mau đều sẵn có những đặc sản trứ danh. Nếu chỉ nhắc đến đại khái, nhiều người sẽ chưa thoả dạ hoặc lòng còn hoài nghi, thắc mắc. Sự trù phú của thiên nhiên hoà quyện với quá trình lao động siêng năng, bền bĩ, đúc kết kinh nghiệm và sự sáng tạo tài hoa của lớp lớp con người Cà Mau đã kết tụ nên giá trị và sức sống lâu bền của những sản vật đặc trưng ở vùng đất mới.

Lưu Hữu Phước – Nhạc sĩ tài danh đất Tây Đô

Hai ba thế hệ người Việt Nam hát những ca khúc của nhạc sĩ tài danh Lưu Hữu Phước. Không có cuộc đời nào, tâm hồn nào trên đất nước Việt Nam thân yêu thế kỷ vệ quốc anh hùng mà không được Lưu Hữu Phước giục giã.

Ngày giải phóng Cà Mau

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 3: Bức tranh văn hoá đa sắc

Dù ở vùng đất mới, gốc gác khác biệt, song khi về tới Cà Mau, thế hệ tiền nhân đã sớm ý thức về nguồn cội, quần tụ và cố kết với nhau bằng sợi chỉ đỏ chảy xuyên suốt của nền văn hoá dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 2: Con người Cà Mau - Nét duyên xứ sở

Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng: “Con người là chủ thể văn hoá, cách ứng xử của con người với chính mình, với thiên nhiên và các mối quan hệ xã hội định hình nên đặc điểm và tính cách của nền văn hoá ấy”. Ở vùng đất mới Cà Mau, nếu không nói về con người Cà Mau, tính cách và cốt cách của con người Cà Mau thì quả thật là một điều thiếu sót lớn. Hồn cốt quê hương, khí phách của ông cha là nơi hậu thế soi chiếu vào đó để nhận diện được chính mình và khơi mở những chặng đường tương lai của mảnh đất này.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc

Khi Báo Cà Mau đăng loạt ghi chép pha chút hơi hướng khảo cứu này, tỉnh Cà Mau đang hừng hực khí thế, với thế và lực mới vững vàng hoà vào dòng chảy thời đại cùng cả dân tộc, đất nước Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển phồn thịnh, giàu mạnh, hạnh phúc.

Dì tôi - Người đàn bà đi qua hai cuộc kháng chiến

Trước đây không lâu, Báo Cà Mau có đăng bài viết về chuyện bà Hai Ðầm tham gia trận diệt đồn Tân Bằng năm 1946. Trong trận đánh táo bạo này, bà được Chi bộ Thới Bình cài vào đồn giặc Pháp làm nội gián để cùng bộ đội ta thực hiện phương án “nội công ngoại kích”. Bài viết theo lời kể của ông Huỳnh Văn Tứ ở thị trấn Thới Bình, người cùng thế hệ và có mối quan hệ thân tộc với bà Hai Ðầm.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài cuối: Ðổi mới phương pháp dạy và học

Việc Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT) siết chặt quản lý dạy thêm, học thêm theo Thông tư số 29/2024/TT-BGDÐT quy định về dạy thêm, học thêm (Thông tư 29) đã nhận được sự đồng thuận của xã hội. Bởi chính phụ huynh, học sinh và cả các thầy cô giáo nhận ra đã đến lúc cần thay đổi tư duy giáo dục theo hướng mở.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài 2: Chia nhau trách nhiệm

Ðể siết chặt vấn đề dạy thêm - học thêm, nếu chỉ dựa vào nỗ lực của ngành giáo dục là chưa đủ, mà còn đòi hỏi sự nhìn nhận đúng và sự giám sát của phụ huynh, của xã hội.