ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 6-7-25 17:56:11
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Lụt về lại nhớ sông xưa

Báo Cà Mau (CMO) Không biết có dòng sông nào như sông Trẹm quê tôi, mỗi năm 2 mùa mưa, nắng, thì dòng sông cũng có 2 mùa, nước mặn và nước ngọt. Từ nhỏ tôi đã nhận ra một điều, là dù vào mùa nào, dòng sông Trẹm vẫn như người mẹ tảo tần, luôn mang trong lòng mình những nguồn lợi thuỷ sản phong phú để ban tặng cho cuộc sống những cư dân hai bờ …

Người dân quê tôi quen với tên gọi sông Trẹm, nhưng tên đầy đủ của dòng sông là sông Trèm Trẹm (cũng có tài liệu gọi là sông Tràm Trẹm). Nhưng tôi không đi sâu vào tên gọi của dòng sông, chỉ muốn giới thiệu với các bạn về nguồn lợi thuỷ sản phong phú và những cách đánh bắt tôm cá từ bao đời nay qua 2 mùa nắng, mưa mỗi năm trên dòng sông Trẹm. Có thể là một vài chi tiết tôi kể giờ đây đã không còn, đã lạ lẫm với lớp người tuổi trẻ ngày nay, bởi thời gian đã làm thay đổi nhiều thứ.

Sông Trẹm hôm nay.                                                                              Ảnh: CHÍ DIỆN

Sông Trẹm năm có 2 mùa, dòng nước mang vị mặn, ngọt khác nhau. Mùa nước mặn thường bắt đầu từ khoảng tháng 11 âm lịch và kết thúc vào tháng 4 năm sau, khi mùa mưa đến và dòng sông cũng chuyển sang mùa nước ngọt. Dù là vào mùa nước mặn hay nước ngọt, sông Trẹm khi xưa luôn dồi dào tôm cá. Giờ tôi vẫn còn nhớ rõ những cách và dụng cụ bắt tôm, cá trên sông của người dân. Có thể kể ra đây khá đầy đủ, như làm nò, đặt đó, đặt vó, đi trễ và những cách đánh bắt thông thường như nhiều nơi khác, như đặt lọp, đặt lờ, giăng lưới, cắm câu, đi câu… Tuỳ theo mùa nước ngọt hay nước mặn trên sông mà bà con thay đổi cách bắt cá.

Vào mùa mưa, khi nước đã tràn đồng, thì dòng sông Trẹm cũng bắt đầu từ nước mặn chuyển dần sang nước ngọt. Khi vào mùa nước ngọt, bông súng mọc dài theo 2 bên bờ sông. Ngày còn nhỏ, tôi đã biết bơi xuồng đi giăng lưới theo làn bông súng. Bông súng mọc ven sông như 2 dải lụa trải dài một màu xanh pha lốm đốm những cánh hoa nhỏ dịu dàng nhấp nhô theo sóng nước. Cá rô, cá lóc, cá trê ít nhiều cũng có cho những bữa ăn gia đình. Những gia đình ở quê xa thị trấn thì làm gì có chuyện mua cá! Nhà nào nhiều người giỏi bắt cá được nhiều, ăn không hết còn mang ra chợ bán như một nguồn thu nhập thường xuyên của gia đình.

Tôi thích nhất là mùa nước lụt, thường vào tháng 8, tháng 9 âm lịch. Mưa nhiều làm con nước sông từ rừng U Minh đổ về pha màu đỏ của phù sa. Nước lên tràn đồng, ngập luôn cả vườn nhà, ngập con đường đất ven sông. Quê tôi gọi mùa nước lên như vậy là “nước lụt”, chứ không phải nước lũ như ở miền Trung, miền Bắc. Nước cứ lên từ từ mỗi ngày một ít, chầm chậm, hiền hoà, như sự bù đắp của thiên nhiên cho con người bằng những hạt phù sa màu mỡ cho vườn tược, đồng ruộng, và bổ sung thêm nguồn lợi đã vơi đi sau một năm sinh sống. Đợt lụt hàng năm có khi tuần lễ, 10 ngày mới rút.

Những ngày nước lụt, cá rô tôm tích trên rừng phía thượng nguồn theo con nước đỏ màu phù sa, men theo viền bông súng 2 bên sông xuôi về hạ nguồn. Bên bờ sông, bà con bắt cá rô tôm tích bằng cách đặt vó hoặc giăng lưới mùng. Những bầy cá tôm tích thoát được bàn tay của con người thì men theo các ngõ lên đồng, trở thành những con cá rô đồng béo ngon, hấp dẫn vào mùa gặt. Những con rô con mùa nước lụt lại trở thành nguồn nguyên liệu để làm mắm cá rô đồng vào mùa nước rút. Mùa lụt, nhà nhà tha hồ ăn cá rô tôm tích với đủ món chế biến dân dã mà ngon nhớ đời, như cá rô tôm tích chiên giòn hoặc lăn bột chiên, hấp cuốn bánh tráng, kho mắm đồng hay đơn giản như kho quẹt mỡ hành đều ngon…

Qua mùa cá tôm tích, lúc này các loại cá nước ngọt trên sông đã có nhiều. Buổi sáng, tôi thường hay đi nhấp cá lóc dài theo con lộ nhỏ ven sông, hoặc giăng lưới, cắm câu, đặt lờ, đặt lọp… Nếu chịu khó một chút thì lúc nào nhà cũng không thiếu cá đồng.

Khi những cơn mưa cuối mùa kết thúc thì gió bấc bắt đầu thổi về. Theo chế độ thuỷ triều và theo mực nước trên sông Trẹm xuống dần, nước mặn từ biển dần xâm nhập vào sông. Thời điểm ấy là con sông dần chuyển sang mùa nước mặn. Dòng sông Trẹm lại có nhiều loài thuỷ sản của nước mặn, như cá chẽm, cá đối, cá rô biển, cá nâu… và dĩ nhiên là có nhiều tôm tép với cua biển theo nguồn nước mặn vào sông sinh sôi. Khi dòng sông vào mùa nước mặn thì dụng cụ bắt tôm cá của bà con cũng thay đổi theo. Nhiều giàn lưới cá chẽm hay lưới cá đối được bủa ngay trên dòng sông, chứ không phải ven bờ như lưới cá đồng. Nhưng có lẽ dòng sông trở nên nhộn nhịp nhất là vào ban đêm. Những chiếc đèn đó, rồi đèn vó đặt tép giăng giăng dọc theo bờ sông, xen những chiếc đèn di chuyển của xuồng đi trễ tạo cho người ta cảm nhận là dòng sông Trẹm vẫn không ngủ và vắt sức mình cho cuộc mưu sinh của người dân mà miền sông nước cưu mang… Nhà có vài miệng đó, vài chiếc vó, và một đêm thức trắng trong mùa nước mặn là có thể kiếm được chục ký tép bạc. Dĩ nhiên là đem bán ở chợ. Mùa lúa đã gặt xong, dòng sông Trẹm mùa nước mặn cũng là nơi mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho đời sống người nông dân.

Đến khi những trận mưa lớn đầu mùa làm nổi nước đồng, dòng sông lại chuyển mình sang mùa nước ngọt. Bước chuyển mình ấy, tôi nghĩ  không nhẹ nhàng chút nào, mà cảm tưởng như dòng sông oằn mình gánh chịu một sự trở mình để chuyển sang trạng thái mới trong sự tuần hoàn của thiên nhiên… Đó là khi những cơn mưa đầu mùa trút xuống, nước mưa hoà vào nước mặn trên sông làm cho nước “đổ phèn” vàng chạch. Bị thay đổi nguồn nước, tôm cá trên sông bị “sốc”, dật dờ dạt vào ven bờ, có khi bơi xuồng mà bắt. Dân quê tôi gọi khoảng thời gian chừng tuần lễ chuyển mùa như thế, là “mùa cá dại” trên sông.

Tôi chưa kể về một dụng cụ bắt cá tôm mà cả 2 mùa nước mặn hay nước ngọt trên sông đều có. Đó là những cái nò. Nò làm bằng nhiều tấm đăng sậy, bện bằng dây choại khô. Ven bờ ở một khúc sông nào đó, những người có kinh nghiệm nhìn là biết luồng cá di chuyển, và đặt những tấm đăng theo bộ khung là những cây tre dài, hoặc cây tràm tuỳ theo vị trí và độ sâu ven sông, với nhiều lớp “thiên la địa võng” nhưng bài bản, để cuối cùng cá lần theo đăng khi di chuyển, chui vào rọ mà bắt. Làm nò thì có thể nói là mùa nào, trên sông có loại gì thì bắt được loại đó. Những con to như cá chẽm, cá lóc, cá rô, đến cá đối, tôm càng, cua biển… Những người dân ở ven sông, nhưng không phải ai cũng rành làm nò, bởi nếu xây nò không đúng kỹ thuật hay không hợp vị trí, thì cũng chẳng bắt được bao nhiêu tôm cá. Những người nổi tiếng về xây nò ở Thới Bình mà tôi biết và còn nhớ đến giờ, những ông “vua nò” chính hiệu, như ông Ba Trộm nhà ở gần đình Thới Bình (nay ông đã mất), và ông Tư Hiếm, hiện vẫn còn sống, nhà ở vàm Rạch Ông. Ngày xưa, nò của người nào, ở vị trí khúc sông nào, thì như mặc định là vị trí ấy thuộc về người đó làm nò, không ai xâm lấn.

Bây giờ trên dòng sông Trẹm quê tôi, nhiều phương tiện, dụng cụ bắt cá tôm như ngày xưa không còn nữa. Những thế hệ sau tôi không còn biết những cái nò, những chiếc đó đặt tép, những chiếc xuồng trễ ban đêm, những ánh đèn dầu hoả lấp lánh trong đêm tối… trên con sông Trẹm quê nhà. Kể cả những tấm hình trên mạng cũng không tìm thấy. Có lẽ ngày nay, nguồn cá tôm trên sông đã cạn kiệt, biến đổi khí hậu làm cho mùa lụt hàng năm nước không còn lên cao, tràn đồng…  Và người ta dần tìm ra những cách bắt tôm cá đơn giản và hiệu quả hơn để thay thế cách của ngày xưa đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp.

Dòng sông Trẹm bây giờ lặng lẽ và trơ trọi, như đã lặng lẽ làm điểm tựa sinh sống cho những cư dân từ đời này sang đời khác. Và mùa lụt năm nay, tôi đọc tin khí tượng thuỷ văn cho biết lượng mưa trên nguồn không nhiều, không biết nước lụt có dâng tràn đồng hay không, để dòng sông chở màu nước đỏ phù sa và những đàn cá rô tôm tích từ rừng về bồi đắp, bổ sung cho cuộc sống của người dân miền sông nước quê tôi…

Nguyễn Sông Trẹm

"Lá chắn thép" nơi cực Nam Tổ quốc - Bài cuối: Dệt nghĩa tình nơi vùng biên

Thắt chặt tình quân - dân, Bộ đội Biên phòng (BÐBP) Cà Mau tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở các địa bàn biên giới biển, đảo, thường xuyên thực hiện các hoạt động nghĩa tình, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho bà con. Ðiều này góp phần củng cố sức mạnh đại đoàn kết, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

"Lá chắn thép" nơi cực Nam Tổ quốc - Bài 2: Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng

Là lực lượng chủ công trên mặt trận phòng chống các loại tội phạm trên biển, Bộ đội Biên phòng (BÐBP) Cà Mau ngày đêm tuần tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi xâm phạm chủ quyền, vi phạm pháp luật. Những chiến công liên tiếp trong việc triệt phá các chuyên án, bắt giữ tội phạm đã góp phần giữ vững an ninh trật tự, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế biển.

"Lá chắn thép" nơi cực Nam Tổ quốc

Năm 2025 là năm đặc biệt đối với Bộ đội Biên phòng (BÐBP) Cà Mau khi đánh dấu 50 năm xây dựng, chiến đấu và không ngừng lớn mạnh, trở thành “lá chắn thép” nơi cực Nam Tổ quốc, đảm bảo sự bình yên và vững chắc cho vùng biển, đảo quê hương. Cán bộ, chiến sĩ BÐBP còn là những người bạn, người thân của Nhân dân, cùng chung tay xây dựng thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh, góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Bộ đội Cụ Hồ.

Lớn lên từ những chuyến đi

Trong suốt chặng đường theo nghề báo hơn 25 năm, có những lúc áp lực, tưởng chừng sẽ phải dừng lại. Song, khi nhìn lại, tôi thầm cảm ơn và tự hào với những gì mà nghề đã mang lại cho tôi, đó là những chuyến đi, khám phá những vùng đất mới, xa xôi, đặc biệt là những chuyến đi biển, đảo. Chính những hành trình ấy đã tiếp thêm sức mạnh, tình yêu quê hương, đất nước, bùng thêm ngọn lửa nghề trong tim tôi.

Khi ý Ðảng gặp sức dân - Bài cuối: Nâng cao hiệu quả quản trị cộng đồng

Bức tranh toàn cảnh về sự hình thành và những thành công bước đầu của mô hình tổ Nhân dân tự quản (NDTQ) tại Cà Mau, cho thấy một thiết chế đầy tiềm năng trong việc kết nối ý Ðảng với sức mạnh cộng đồng. Tuy nhiên, hành trình xây dựng và phát triển mô hình này không tránh khỏi những “gập ghềnh”, những “nút thắt” cần được tháo gỡ.

Viết báo tết trong chiến khu

Buổi sáng cuối đông năm 1973, bầu trời se lạnh. Chúng tôi ngồi viết báo Tết trong khu vườn dừa của chú Sáu Lân ở ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

Khi phóng viên địa bàn đồng hành cùng địa phương

Từ thời Báo Minh Hải, phóng viên đã được Toà soạn phân công phụ trách địa bàn để cùng ăn, cùng ở, cùng làm với cơ sở, với bà con, nắm bắt thật sát tình hình địa phương, thực hiện các tin, bài nóng hổi tính thời sự, góp phần và đồng hành cùng với sự ổn định, phát triển của địa bàn phụ trách.

Khi ý Ðảng gặp sức dân

Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân”, ở Cà Mau, một mô hình tổ chức xã hội đặc biệt đang âm thầm bén rễ và lan toả sức sống: Tổ Nhân dân tự quản (NDTQ). Thoạt nghe, cụm từ này có vẻ khô khan, mang nặng tính hành chính, nhưng khi đặt chân đến những xóm, ấp nơi mô hình này đang hoạt động, người ta mới cảm nhận được hơi thở của sự tự nguyện, tinh thần đoàn kết và khát vọng làm chủ cuộc sống cộng đồng. Ðây không chỉ là hình thức tập hợp người dân theo địa bàn cư trú, mà sâu xa hơn, nó đang dần khẳng định vai trò như một cầu nối sống động, nơi ý Ðảng được truyền tải một cách gần gũi nhất, hoà quyện với nhu cầu và sức mạnh nội tại của Nhân dân.

Với nghề, tôi thấy mình như vừa chập chững tập đi...

Tôi bắt đầu công việc viết lách từ rất sớm, như các bạn tuổi mới lớn khác, tập tành sáng tác thơ và tản văn. Ở những năm học cấp III, tôi chi tiêu cho mua dụng cụ học tập, hàng quà hay những thứ lặt vặt khác, từ chính nguồn nhuận bút viết lách.

Thức cùng sóng biển

Hầu như năm nào cũng vậy, khi những làn gió chướng đầu tiên lao xao trên cành lá là cái rạo rực về những bài báo xuân cứ thôi thúc trong mỗi chúng tôi.