Thứ tư, 22-10-25 16:20:28
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Mâm cơm ngày Tết

Báo Cà Mau Quê tôi ở Bạc Liêu, giáp bán đảo Cà Mau của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tôi thấy mâm cơm ngày Tết quê mình cứ hằn sâu trong tâm khảm, đi đâu, làm gì cũng nhớ khi mấy ngọn gió chớm xuân len lỏi kéo về.

Minh hoạ: KIỀU LOAN

Minh hoạ: KIỀU LOAN

Hồi tôi còn bé, khoảng 50-60 năm trước, đất nước chiến tranh, người dân ly tán, hồi đó gọi là đi tản cư. Sau này khi tổng kết chiến tranh, người ta tính được rằng, có khoảng 75% dân nông thôn phải lìa bỏ làng xóm, quê hương để vào các thị tứ, thị trấn, trục lộ 4 (quốc lộ trước năm 1975) hay chùa chiền… để thoát khỏi vùng chiến sự ác liệt. Gia đình tôi cũng phải đi tản cư vào những năm 1968. Tại chỗ mới người ta che chòi, dựng lều mà ở, đó là chùa Cái Giá, vùng Hưng Hội, Bạc Liêu, có đến cả ngàn người.

Khung cảnh tá túc đầy tạm bợ và vô cùng nhếch nhác. Thế nhưng, khi Tết về, tất cả những căn chòi, túp lều ấy đều làm tạm cái bàn thờ và nghi ngút khói hương suốt 3 ngày Tết. Và dĩ nhiên, trên cái bàn thờ nhìn “phát khóc” ấy là một mâm cơm rước ông bà chiều 30 Tết. Và trên đó cũng được để cặp dưa hấu trên hai nải chuối xiêm, gọi là trưng Tết, cùng với mấy bộ quần áo, giấy tiền, vàng mã và cặp đèn cầy.

Chỉ có vậy thôi mà cái Tết bỗng ngay trong túp lều. Và mùa xuân của trời đất vô cùng đẹp đẽ, bất kể sang hèn, bất kể chiến tranh ly loạn, khe khẽ gõ cửa bước vào từng căn chòi. Người quê thời loạn khoác đời ly hương bỗng ngơ ngác rồi tận hưởng mùa xuân mà ứa nước mắt khi chữ hiếu chưa thành, chữ xuân chưa vẹn. Rồi trong cái đêm trừ tịch ấy tràn ngập trong lòng những người ly hương một nỗi nhớ nhà, nhớ xóm, nhớ những cái Tết quê. Ở đó là một xóm nghèo, từng có những năm tháng không chiến tranh, không có những cái chết tức tưởi. Người quê bước vào những mùa xuân thanh bình thật là nôn nao, rộn rã, không thể nào quên được.

Quê tôi là một xóm nghèo, nằm trên bờ sông Bạc Liêu - Cà Mau. Ðất đai cứ chực chờ nhiễm mặn. Ðó là cái thời nguồn thu từ lúa là chủ đạo, nhưng lúa đạt năng suất 10 giạ/công tầm cấy, đã là trúng mùa. Làm rồi mùa, đa số dân làng trả nợ, ăn cái Tết là hết. 99% là nhà lá cột cặm cây rừng. Xóm nằm hướng mặt ra sông, sau lưng là cánh đồng rộng.

Tôi nhớ mỗi năm khi Tết nhất gần kề, 3 giờ khuya ba tôi đã nấu một bình trà bằng cỏ nước mặn phơi khô, rồi độc ẩm và nói chuyện một mình bằng những câu rên rỉ, không trả nợ được thằng cháu mười giạ lúa, lấy gì mà làm mùa năm tới. Má tôi cũng thế, cứ chắc lưỡi, hít hà, rên rỉ, tiền đâu mà ăn Tết, mà mua quần áo Tết cho mấy đứa nhỏ…

Thế nhưng lạ lắm, rồi thì Tết vẫn về và những người quê nghèo khó vẫn an bài được, vẫn vui với mùa xuân, bởi họ có cảnh sống của họ. Cảnh sống này đã thành nếp đối với nhiều thế hệ dân quê vùng bán đảo Cà Mau. Trước tiên hãy xem người ta tính toán mâm cỗ Tết như thế nào.

Bây giờ, món thịt heo kho tàu với trứng vịt đã bắt đầu thu hẹp dần trong các tiệc tùng, giỗ chạp. Trong các đám cưới thì không còn thấy nữa, có chăng là người ta làm cho đủ lễ và những người có tiền không dám ăn, vì sợ mập. Thế nhưng hồi đó, nói về mâm cơm ngày Tết, nó đứng ở ngôi thứ đầu bảng, là món xa xỉ, tốn kém nhất. Và đối với bọn trẻ con nhà nghèo chúng tôi, nó ngon như “sơn hào hải vị”.

Còn nhớ ngày xưa, vào dịp hệ trọng, những nhà giàu làm con heo ăn mừng là chứng tỏ ngay cái vị thế, cái đẳng cấp nhà giàu trong mắt chòm xóm. Thế nhưng, làng tôi vì nghèo nên chẳng ai dám làm con heo ăn Tết bao giờ. Chủ yếu, một cách làm quen thuộc là ở xóm có ai nuôi heo, vào dịp Tết, họ mần để chia lúa. Gia đình tôi suốt nhiều chục năm chia lúa thịt heo về ăn Tết, vì chẳng có tiền ra chợ mà mua. Cứ một ký thịt heo là một giạ lúa, bất kể thịt đùi, thịt ba rọi hay mỡ. Và phải trả lúa cho người bán heo vào vụ gặt tới. Sáng 30 Tết là ba tôi đi chia thịt heo đằng xóm. Hai, ba ký thịt ba rọi để nấu nồi thịt kho tàu; một đến hai ký mỡ là để gói bánh tét và một ký thịt đùi để làm cái lẩu ngọt cho mâm cơm rước ông bà chiều 30 Tết; một mâm cơm cúng đầu năm trên bàn gia tiên mừng năm mới vào sáng mùng Một.

Vậy đó, mà trong xóm có nhà nghèo quá không dám đi chia lúa thịt heo, vì không có điều kiện trả. Thế là họ làm vịt xiêm, lấy trứng vịt nhà đẻ mà kho nước dừa cũng thành nồi thịt kho tàu. Có nhà thiếu vịt xiêm thì cho cá lóc vào kho thêm. Vậy đó, sự cùng túng đã làm nên nồi thịt kho rệu phong phú, ăn cũng ngon, thậm chí là đặc biệt nữa.

Kèm theo món thịt kho tàu bắt buộc phải có là dưa giá. Những năm không tiền mua đậu xanh trút giá thì má tôi trồng cải tùa xại hoặc củ cải trắng rồi làm dưa chua một khạp to để dành ăn suốt những ngày Tết. Loại dưa chua này rất dễ ăn, ăn với thịt kho cũng được và nó biến thành món nhậu rất ngon khi ăn kèm với tôm khô thay cho củ kiệu.

Tôm khô - củ kiệu là món bây giờ, chứ hồi xưa có tôm khô, nhưng không có củ kiệu, vì nó mắc mỏ lắm, làng tôi không ai dám mua cả. Trong khi đó, có một chuyện ngược ngạo so với bây giờ là tép đất để chế biến tôm khô xịn nhất thời bây giờ thì đầy kênh rạch. Thế nên nhà nào cũng làm tôm khô cho mâm cơm Tết và cũng để đãi khách khứa suốt mùa Tết. Thậm chí ăn tôm khô hoài cũng chán, người quê làm thêm khô cá lóc, cá bổi, cá sặt bướm… cho món ăn ngày Tết thêm phong phú, bởi những loại khô này làm ra không tốn tiền.

Món thứ ba của mâm cơm ngày Tết là gà luộc. Món này thì không phải mua. Ở quê tôi người nghèo có cách sống đã thành nếp muôn thuở là họ nuôi gà, vịt để chuẩn bị cho cái Tết rất chu đáo. Như đã nói trên, thịt heo là thứ đắt đỏ nên nhà quê thường lấy thịt gà, vịt, thậm chí là tôm, cá để chế biến thay cho thịt heo ở những món không thể thiếu của mâm cơm Tết. Người ta dùng thịt gà, vịt bằm nhuyễn ra mà dồn vào khổ qua cho món khổ qua hầm. Nhà nghèo quá thì nấu tô canh chua cá lóc thay cho cái lẩu ngọt thịt heo hoặc dùng gà, vịt nấu cà ri nước cốt dừa.

Mâm cổ Tết ở bán đảo Cà Mau và vùng đồng bằng sông Cửu Long - một vùng đất từ xưa nổi tiếng dồi dào sản vật, nên nông dân nghèo sáng tạo nhiều món quê từ tôm, cá chứ không cố định...

Còn bánh trái cũng ít khi mua. Ngày xưa, gói bánh tét ăn Tết là một nếp sinh hoạt Tết đặc sắc, ổn định của nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên liệu thì trừ mỡ heo ra, tất cả là “cây nhà lá vườn”. Tôi nhớ 25 Tết là má tôi ra vườn chuối sau nhà tét lá rồi đem phơi, sẵn đó bà đốn luôn một quài chuối già vừa để trưng với cặp dưa hấu trên bàn thờ, vừa để làm nhân gói bánh tét. Hồi đó nhà nghèo không có tiền mua mỡ thì gói bánh tét nhân chuối thêm. Trước cúng, sau ăn, để cho con cháu có bánh tét mà ăn Tết với người ta.

Nhà quê nghèo nhưng xem ra bánh Tết cũng có mấy loại. Thường thấy là bánh bông lan và mứt dừa. Ngày xưa đường cũng là món hàng đắt đỏ mà túi tiền người quê không cho phép... Mãi đến thập niên 80-90 của thế kỷ 20, nông dân vùng Bạc Liêu, Cà Mau vẫn còn làm bánh bằng thứ đường chảy chứ làm gì dám xài đường cát. Dừa rám vỏ ở nhà trồng, cứ gần Tết là chế Hai tôi sai tôi trèo lên những cây dừa, chọn những trái dừa vừa cơm, gọi là dừa rám vỏ, để làm nguyên liệu sên mứt dừa. Nông dân làng tôi trồng lúa bao giờ cũng dành một, hai công đất cấy nếp để làm bánh trong những khi Tết nhất, giỗ chạp.

Tôi nhớ như in, chiều 27-28 Tết, chái bếp nhà tôi vui như mở hội. Mấy bà già trong xóm đến ngồi trên bộ ván để giúp má tôi gói bánh tét; các chị trong xóm thì giúp chị Hai tôi nướng bánh bông lan, sên mứt dừa. Họ xúm xít với nhau làm theo kiểu vần đổi công, hết nhà này đến nhà khác, vừa vui vừa mau lẹ công việc.

Một điều phải nói rằng, họ làm bánh rất đẹp, rất ngon. Sau này tôi mới hiểu rằng, cách vạn dần đổi công ấy nó trao truyền kinh nghiệm như em gái đi theo mẹ qua nhà hàng xóm gói bánh mà chơi, cũng là lúc những cô gái học nghề. Mẹ truyền cho con, dì truyền cho cháu. Nó giống như một thứ trường học nữ công gia chánh của người quê và nó được thêm nữa là tình làng nghĩa xóm ngày càng vun đầy.

Sau này em gái tôi lớn lên, gia đình cũng khấm khá một chút, thấy má tôi già yếu, nó đòi ra chợ mua bánh tét, bánh bông lan, mứt dừa... về cúng Tết. Mắt má tôi chợt buồn, vẻ mặt bần thần, hồi lâu bà mới nói: “Làng xóm mình từ xưa đến giờ sống vậy, làm vậy, mình làm khác sẽ lỗi nhịp với làng quê. Bánh trái là để cúng. Cái hiếu hạnh nằm trong đòn bánh tét cả con ơi”.

Bây giờ ngồi nhớ lại, thấy má tôi nói đúng. Không phải chỉ có đòn bánh tét mà cả mâm cơm ngày Tết của đồng bằng sông Cửu Long đều chứa nhiều mồ hôi công sức. Ðó là phẩm vật bằng lòng thành dâng lên cúng bái ông bà tổ tiên, trời đất trong năm mới, nên nó thật sự có ý nghĩa và chính từ đó mà xuân của chúng ta cũng thêm phần ý nghĩa./.

 

Phan Trung Nghĩa

 

Gợi ý quán cơm niêu d5 có hương vị ngon Thực đơn công nhân 20k 1 suất

Khánh thành Di tích Chiến thắng Đầm Dơi - Cái Nước - Chà Là

Sáng 15/10, Di tích Chiến thắng Đầm Dơi - Cái Nước - Chà Là chính thức được khánh thành. Đây là một trong 11 công trình, dự án chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ I.

Truyền dạy nghệ thuật Khmer và Hoa cho hơn 100 học viên

Sáng 15/10, hơn 100 học viên là nghệ nhân, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số cùng người Khmer và người Hoa sinh sống tại các xã, phường có điểm du lịch trên địa bàn tỉnh tham dự lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng truyền dạy nghệ thuật cổ truyền do Sở VHTT&DL tỉnh phối hợp với Trường Đại học Bạc Liêu tổ chức.

Trang nghiêm Đại lễ Dâng y Kathina năm 2025

Sáng 12/10, tại Chùa Rạch Giồng (ấp Đường Đào, xã Hồ Thị Kỷ) long trọng diễn ra Đại lễ Dâng y Kathina năm 2025. Đây là một trong những nghi lễ quan trọng của Phật giáo Nam tông Khmer, mang đậm giá trị văn hóa tâm linh, thể hiện lòng tôn kính và tri ân sâu sắc của phật tử đối với chư tăng sau ba tháng an cư kiết hạ.

Hấp dẫn món xíu mại

Có một món ngon mang đậm văn hoá của cộng đồng người Hoa ở vùng đất phương Nam, đó chính là món xíu mại. Theo các tài liệu nghiên cứu về văn hoá ẩm thực, món này có nguồn gốc từ Trung Quốc, với tên Hán Việt là “thiêu mại” và phát âm theo tiếng Quảng Ðông là “xíu mại”, rồi được dùng cho đến ngày nay.

Dạo chơi cùng nhiếp ảnh

Duyên nhiếp ảnh đến với anh Cao Minh Tùng vào khoảng năm 1984, khi ấy, được chứng kiến các chú, bác chụp ảnh sếu đầu đỏ bằng máy phim, mê quá, anh mới lân la tìm hiểu, rồi mua máy ảnh học chụp. Từ đó đến nay, nhiếp ảnh là nơi anh thư giãn, làm phong phú hơn đời sống tinh thần.  

Giữ hồn Nam Bộ qua Câu lạc bộ Đờn ca tài tử

Đờn ca tài tử (ĐCTT) là loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc, mang đậm dấu ấn văn hoá của người dân Nam Bộ. Từ khi được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2013, nghệ thuật ĐCTT càng được quan tâm gìn giữ. Trong hành trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản này, Câu lạc bộ (CLB) ĐCTT ở các địa phương trong tỉnh đã và đang đóng vai trò quan trọng.

Chàng sinh viên Cà Mau mang đam mê âm nhạc đến sân khấu lớn

Đang là sinh viên năm hai, ngành Công nghệ thông tin, Phân hiệu Trường Đại học Bình Dương tại Cà Mau, Trịnh Lâm Huy không chỉ học giỏi mà còn sở hữu giọng hát truyền cảm, giàu cảm xúc. Với niềm đam mê âm nhạc cháy bỏng, Huy mạnh dạn ghi danh tại sân chơi lớn “Ngôi sao nhạc Việt”, và hiện đang chuẩn bị bước vào vòng chung kết của cuộc thi.

Khi sản phẩm OCOP làm “đại sứ văn hoá”

 Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) ở Cà Mau đang góp phần nâng tầm giá trị những đặc sản nông nghiệp, hải sản của địa phương thông qua hoạt động chế biến, đóng gói, xây dựng thương hiệu và đạt chứng nhận từ 3 đến 5 sao. Đây không chỉ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn mà còn là cách quảng bá hiệu quả hình ảnh Cà Mau đến với thị trường trong và ngoài nước.

Trăm năm Dạ cổ còn ngân vang

Cách đây tròn 106 năm, vào đêm Rằm tháng Tám năm 1919, nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác Dạ cổ hoài lang để thay vợ gửi gắm nỗi nhớ thương chồng. Hơn một thế kỷ qua, bản nhạc lòng bất hủ ấy vẫn sống mãi trong trái tim người mộ điệu, được các thế hệ nghệ nhân trân trọng gìn giữ và phát huy.

Trang nghiêm Lễ giỗ Tổ sân khấu và 65 năm Đoàn Văn công Giải phóng Cà Mau

Tối 2/10, Lễ giỗ Tổ sân khấu và kỷ niệm 65 năm thành lập Đoàn Văn công Giải phóng tỉnh Cà Mau (1960–2025) được long trọng tổ chức tại Đoàn Cải lương Hương Tràm. Đây là sự kiện đặc biệt, khắc ghi chặng đường vẻ vang và truyền thống quý báu của nghệ thuật phục vụ cách mạng trên quê hương Đất Mũi.