ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 21-9-24 00:49:47
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Mưu sinh sông nước

Báo Cà Mau (CMO) Cà Mau quê hương tôi sông ngòi chằng chịt. Những con sông chảy dài vô tận mang theo nhiều sản vật của thiên nhiên. Trên những dòng sông hiền hoà ấy là nơi mưu sinh của nhiều nông dân chân chất.

Hoàng hôn buông xuống, tiếng máy xuồng huyên náo cả một khúc sông Mỹ Bình. Một buổi tối mưu sinh của những người làm nghề cào sò huyết trên sông lại bắt đầu. Trong số người đang tất bật chạy ngược chạy xuôi cào kiếm từng con sò có anh Võ Văn Lân (ấp Mỹ Bình, xã Phong Điền, huyện Trần Văn Thời). Hỏi thăm mới biết, anh Lân sống bằng nghề này không biết đã bao nhiêu năm, bởi bản thân anh cũng không nhớ nổi. Anh chỉ nhớ rằng, từ trước giờ, ngoài những lúc đi cân cá phi ở vuông bán lại thì anh Lân lại quay về cào sò huyết trên sông. Cho đến nay, khi có vài công đất vuông ít ỏi của riêng mình để canh tác thì anh Lân vẫn không từ bỏ nghề giúp gia đình mình qua cơn khốn khó.

Niềm vui khi bắt được cá, tôm của anh Bùi Văn Thành (ấp Đất Biển, xã Phong Điền, huyện Trần Văn Thời).

Nghề cào sò huyết trên sông rất đơn giản. Chỉ cần 1 xuồng máy, 1 dụng cụ cào sò bằng inox do người làm nghề tự chế là có thể hành nghề. Nếu cào sò huyết thịt thương phẩm thì khoảng cách mỗi răng cào sẽ thưa hơn so với cào sò huyết giống.

Cũng giống như những nghề mưu sinh trên sông nước, nghề cào sò huyết cũng tuỳ thuộc vào vận may. Đi chung một đoàn, có người cào trúng, người cào thất. Như vừa rồi, sau mấy hôm cào sò huyết giống, bạn anh Lân trúng đậm bỏ túi hơn chục triệu đồng, còn anh thì chỉ được vài triệu. Nhưng với anh, được nhiêu đó cũng ấm lòng. Bởi, anh em sống nghề sông nước này, ai đánh bắt được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu, không có tính toán, ganh đua lẫn nhau. Hơn nữa, chỉ vài ngày cào sò mà được nhiêu đó cũng gọi là may mắn.

Nghe nói thu nhập thì cao, nhưng để có đồng tiền chân chính, người làm nghề như anh Lân phải chịu cảnh vất vả. Có buổi cào tối, có buổi cào trưa. Nhưng làm buổi nào thì cũng lênh đênh trên sông nước suốt mấy tiếng đồng hồ. Mỗi cái cào quăng xuống rồi kéo lên, nhiều nhất là rác, bùn, chỉ có vài con sò nhỏ. Để có được vài trăm ngàn đồng mỗi ngày phải quăng, kéo, lựa không biết bao nhiêu lần cào. Thế nên, chuyện đau tay đã trở nên quen thuộc. Cào ban ngày thì đỡ cực, nhưng nếu phải cào ban đêm thì khổ cực hơn. 4 giờ chiều cào tới 7, 8 giờ tối mới về. Trời lạnh, gió buốt, đường xuồng máy thì nhiều hiểm nguy. Thế nhưng, nghĩ đến vợ, đến con, những người gắn bó với nghề cào sò huyết trên sông như anh Lân phải kiên nhẫn mà làm.

Không phải anh Lân không muốn kiếm nghề khác trên bờ nhẹ nhàng hơn, nhưng “Tánh mình thích tự do, làm thuê cho người ta thì ràng buộc lắm, nhiều điều không như ý muốn. Nghề cào sò hay cân cá bán lại thoải mái hơn nhiều, mình làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Siêng năng thì cũng không đến nỗi nào. Cào sò huyết này, một buổi làm cũng được vài trăm, có khi trúng nữa”, anh Lân cười nói. 

Cũng mưu sinh trên sông như anh Lân, việc dầm mưa dãi nắng với anh Bùi Văn Thành đã không còn là chuyện lạ. Sau 1 giờ đồng hồ, 40 cái lú cũng dỡ gần xong xếp đầy xuồng mà tôm, cua, ba khía, cá chỉ chừng nửa thùng nước sơn. Anh Thành cười buồn: “Gom góp hết, bán lẻ ở chợ chắc cũng được trăm ngoài ngàn”. Với anh, như vậy cũng là vui, bởi nhiều khi trở về gần như tay trắng. 
Thu nhập từ nghề lú trên sông nước bữa nhiều bữa ít, nhưng với anh Thành, nhờ có nghề bà cậu mà đắp đổi. Cái thời cá bạc tôm vàng đã lùi vào dĩ vãng. Nơi những dòng sông bây giờ, sản lượng cá, tôm không còn dồi dào, trù phú như trước, nhưng nếu nông dân biết chăm chỉ, cần cù lao động thì cũng không đến nỗi đói nghèo.

Ai không tường cứ ngỡ gia đình anh Thành khấm khá. Hơn 20 công đất vuông đâu phải ít. Nhưng đèn nhà ai nấy tỏ. Đất vuông nhà anh tuy bộn nhưng toàn là mướn, đâu có công nào là của riêng anh. Chi phí 1 năm mướn vuông đã 20 triệu đồng; Mà nuôi tôm, cua thiên nhiên bây giờ cũng "hên xui", năm được, năm huề vốn. 

Ông bà ta hay nói: “An cư lạc nghiệp”, anh Thành tin vậy. Dù không phải đất sở hữu của mình nhưng có đất người ta sẽ chuyên tâm làm ăn, chăm chút từng tấc đất. Đời sống dù gì cũng đỡ hơn cảnh rày đây mai đó, bôn ba xứ người. Và anh cũng quả quyết rằng, chỉ cần không ngại khó ngại khổ, làm 10 đồng ăn xài chỉ 1-2 đồng rồi tương lai nhất định sẽ tươi sáng hơn.

Bởi vậy, hơn 1 năm qua, ngày nắng cũng như ngày mưa, cứ mỗi khi trời xế chiều, anh Thành lại đặt mấy chục cái lú kiếm từng con tôm, con tép. Và hôm sau, khi mặt trời tỉnh giấc, anh Thành lại dỡ giàn lú, ôm ấp hy vọng thu hoạch được nhiều cá, tôm. Đặc thù của nghề đặt lú dưới sông là một giàn mấy chục cái liên tiếp. Khi đặt còn đỡ, chớ khi dỡ lú khá nặng. Sông cạn đỡ tốn sức, còn sông sâu thì cực bội phần, vì vậy, đòi hỏi người làm nghề ngoài cần cù phải có sức khoẻ, sự dẻo dai.

Anh Thành tâm sự: “Nghề nào cũng có cái cực riêng của nó. Với tôi, nghề đặt lú này làm riết cũng quen rồi. Sáng dỡ, rồi về muối lại cho sáng mai vợ đem ra chợ Xẻo Quao ở Sông Đốc bán sớm. Cua nhỏ đặt được thì về thả lại trong vuông nuôi. Đồ nhà nên ra chợ mình bán giá mềm hơn người ta một tí cho dễ tiêu thụ. Nhờ nghề này bình quân 1 tháng cũng được 3-5 triệu đồng”.

Thu nhập như thế ở vùng nông thôn không phải nhỏ, cùng với số tiền nuôi tôm, cua, cuộc sống gia đình anh Thành dần ổn định. Nhưng hàng ngày trên những dòng sông Đất Biển (xã Phong Điền, huyện Trần Văn Thời), mọi người vẫn thấy hình ảnh anh nông dân tầm tứ tuần vất vả bên giàn lú nhặt “lộc” của thiên nhiên. Và mỗi buổi họp chợ sớm, vợ anh lại tần tảo bán mớ cá, mớ tôm mà anh đánh bắt được. Chăm lo làm ăn, để lo toan cuộc sống gia đình, quan trọng hơn là đường học hành của con cái sau này và hy vọng tương lai sẽ sở hữu được mảnh đất của riêng vợ chồng anh.
Còn đối với anh Tạ Văn Khánh (Khóm 7, thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời) sông nước là hồn quê, là ký ức tuổi thơ, là điều gì đó tuy bình dị nhưng không thể thiếu trong cuộc đời. Lớn lên cùng nghề giăng lưới, giăng câu, vợ anh (chị Võ Thuý Hằng) cũng là đứa con của vùng nước nổi An Giang nổi tiếng một thời cá linh, cá chốt đầy xuồng làm mắm ăn không hết, nên những ngày tháng bôn ba nơi đất Bình Dương nhộn nhịp kiếm sống, mỗi khi rảnh rang, hai vợ chồng lại kéo chài, cắm câu cho đỡ buồn. Cuộc sống đô thị nhộn nhịp nhưng dường như không phù hợp với nông dân thích tự do tự tại như anh, vậy là, cả năm nay, gia đình anh lại về quê mưu sinh với nghề thả lưới trên sông. Những đêm tối trời, ngoài giăng, canh từng mẻ lưới, vợ chồng anh lại cùng nhau bắt ba khía. Thức trắng đêm, thu nhập cũng được vài chục đến vài trăm ngàn đồng, tạm gọi là đủ sống. Nhưng ngặt nỗi đâu phải ngày nào cũng có thu nhập. Sóng yên, gió lặng thì giăng lưới còn mưa, dông thì những tay lưới nằm yên một góc nhà. Một ngày làm trang trải cho hai, ba ngày sau. Thế nên, căn nhà lụp sụp đã nhiều năm tuổi dựng tạm cạnh mé sông trên phần đất của chính quyền cho mượn cũng chưa được thay mới.

Anh Khánh tâm tình: “Cuộc sống bình bình vậy thôi. Nhưng vợ chồng tôi thích nghề sông nước này. Thoải mái, mình chăm chỉ, chịu khó thì cũng có miếng cơm qua ngày. Nhưng cũng không biết làm tới chừng nào, còn cá thì còn làm”.

Nghề chim trời cá nước tuy bấp bênh, vất vả là vậy, nhưng với những người mưu sinh trên sông nước, động lực để họ gắn bó với nghề chính là những đồng tiền mướt mồ hôi kiếm được giúp trang trải cuộc sống hàng ngày, là cuộc sống tự do, là hoà mình với thiên nhiên, sông nước. Sau ngày lao động mệt nhoài, họ chỉ nuôi hy vọng, những mẻ lưới, giàn lú kéo lên sẽ mang theo nhiều tôm, cá./.

Ngọc Minh

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực

Tôm, cua Cà Mau là 2 ngành hàng chủ lực nâng cao đời sống của đại bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung. Tuy nhiên, những năm gần đây, 2 mặt hàng này đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự thay đổi nhanh, toàn diện để tạo đột phá và phát triển bền vững.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài cuối: Xứng đáng với vai trò, trọng trách

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HÐND 3 cấp tại Cà Mau đã trở thành quyết tâm, xu thế để đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xứng đáng với vai trò, trọng trách được cử tri tin tưởng trao gởi. HÐND các cấp của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đang ra sức phụng sự, phấn đấu, cống hiến vì mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 3: Tiếp xúc cử tri “đúng người, đúng việc, đúng vai”

Ông Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh Cà Mau, từng rất trăn trở: “Tiếp xúc cử tri mà cán bộ nhiều hơn dân thì chưa đúng người, đúng việc, đúng vai. Tình trạng này phải chấn chỉnh ngay, phải để tiếp xúc cử tri là nơi thể hiện quyền làm chủ thật sự, thực chất của Nhân dân; để bà con cử tri đóng góp ý kiến, đề đạt tâm tư, nguyện vọng và hiến kế góp phần vào sự ổn định, phát triển chung của địa phương”.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 2: Giám sát có trọng tâm, trọng điểm

Giám sát là hoạt động quan trọng của HÐND các cấp, góp phần xác định vị thế, năng lực hoạt động của đại biểu dân cử, cơ quan dân cử, tạo dựng niềm tin và sự tín nhiệm đối với cử tri. Giám sát có trọng tâm, trọng điểm; đa dạng hình thức giám sát, được đo đếm bằng kết quả thực tế, sự đánh giá của cử tri chính là nỗ lực, mục tiêu mà các cấp HÐND tỉnh Cà Mau đang dồn sức thực hiện.

Hành trình của khát vọng và hành động

HÐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân; thay mặt Nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương bằng việc ban hành các nghị quyết tại các kỳ họp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định pháp luật.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài 2: Linh hoạt với những mô hình hiệu quả

Giai đoạn 2020-2025, Cà Mau có nhiều cách làm chủ động, linh hoạt trong thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi, chuyển đổi nghề hiệu quả, hàng loạt kế hoạch đào tạo lao động tại địa phương đã giúp người dân vượt khó vươn lên, mang tính thực tiễn cao.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài cuối: Nhìn từ thực tế

Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, đến năm 2022 Trung ương mới bắt đầu phân bổ kế hoạch vốn và ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, các hướng dẫn từ Trung ương chưa đầy đủ, kịp thời nhưng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HÐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành cấp tỉnh, cùng với sự nỗ lực của địa phương và người dân, các hoạt động thuộc chương trình đã và đang triển khai thực hiện cơ bản đạt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

“Thắng giặc nghèo” không khó

Với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, nhất là sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của người dân, các chính sách giảm nghèo được triển khai thực hiện đồng bộ trên địa bàn tỉnh, mang lại kết quả tích cực. Nhiều hộ nghèo, cận nghèo sau khi thoát nghèo có cuộc sống ổn định, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng lên.