ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 8-10-24 09:55:14
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nan giải bài toán “ngọt hoá”

Báo Cà Mau Cà Mau là tỉnh ven biển duy nhất có ba mặt giáp biển và cũng là tỉnh duy nhất trong khu vực không có nước ngọt bổ sung từ hệ thống sông Mê Kông. Năm 2002, UBND tỉnh Cà Mau quyết định phê duyệt quy hoạch vùng Bắc Cà Mau là vùng ngọt hoá. Vùng này được chia làm 5 tiểu vùng, trong đó, Tiểu vùng III (thuộc huyện Trần Văn Thời) và phần lớn của Tiểu vùng II (huyện U Minh) hiện còn giữ được ngọt hoá.

Do không có nguồn nước ngọt bổ sung cùng với ảnh hưởng biến đổi khí hậu, tình trạng hạn hán kéo dài, nước trên các sông, rạch khô cạn, ảnh hưởng đến lưu thông, vận chuyển hàng hoá bằng đường thuỷ và mất phản áp lực nước lên bờ kênh, dẫn đến sạt lở, sụt lún đất, đường giao thông rất nghiêm trọng. Trước những thách thức đặt ra, việc rà soát tổng thể quy hoạch lại vùng ngọt hoá để đảm bảo phục vụ sản xuất, giữ lại vùng ngọt hoá của tỉnh là yêu cầu cấp thiết.

Bài 1: Thách thức giữ ngọt

Nằm trong quy hoạch vùng ngọt hoá của tỉnh, huyện Trần Văn Thời được hình thành và phát triển với đa dạng hệ sinh thái, phong phú chủng loại cây trồng, vật nuôi, các loài thuỷ sản nước ngọt và đã trở thành nét đặc trưng của vùng bán đảo Cà Mau. Song, việc giữ vùng ngọt, điều tiết nước hợp lý, đầu tư đồng bộ hệ thống thuỷ lợi để đáp ứng sản xuất trong vùng đang trở thành thách thức lớn hiện nay. 

Ða dạng hệ sinh thái

Trên vùng ngọt hoá hiện nay có trên 2.000 ha vườn chuối được nông dân quan tâm cải tạo. Hơn 7.800 ha đất lâm nghiệp, phát triển diện tích trồng rừng thâm canh 758 ha cho giá trị kinh tế cao và ổn định qua các chu kỳ. Vùng đất này còn kết hợp đa cây, đa con với 4 trang trại chăn nuôi heo tập trung, quy mô xuất chuồng 18 ngàn con/năm; 140 ha cá bổi thâm canh được duy trì phát triển và được tỉnh công nhận nhãn hiệu tập thể “Cá khô bổi U Minh”, sản phẩm OCOP, góp phần nâng cao giá trị, tiềm năng của huyện.

Nhiều năm qua, sản vật của vùng đất ngọt hoá này luôn được bảo vệ, duy trì, phát triển nhờ đầu tư hệ thống thuỷ lợi khép kín. Trong đó, hệ thống đê bao ngoài (Tiểu vùng III được giới hạn bởi đê biển Tây, đê Sông Ðốc - Tắc Thủ, đê kênh Minh Hà - Kênh 84 - kênh Ba Tĩnh) được đầu tư tương đối hoàn chỉnh.

Theo đó, hệ thống 58 cống cũng được xây dựng đảm bảo điều tiết nước (tuyến đê Minh Hà - Sông Ðốc có 26 cống; tuyến đê biển Tây 6 cống; tuyến bờ bao các ô của tiểu vùng 24 cống). Ðồng thời, đầu tư 9 trạm bơm/29 máy, tổng công suất 134.000 m3/h.

Cùng với đó, Tiểu vùng III được xây dựng 6 ô thuỷ lợi, gồm ô thuỷ lợi Khánh Bình Ðông - Trần Hợi - thị trấn Trần Văn Thời, diện tích 4.500 ha; ô thuỷ lợi Khánh Hưng 4.030 ha; ô thuỷ lợi Khánh Hải 3.474 ha; ô thuỷ lợi Khánh Bình Tây Bắc 300 ha; ô thuỷ lợi Minh Hà 300 ha; ô thuỷ lợi cánh đồng mẫu lớn xã Khánh Bình Ðông 4.230 ha.

Vùng sản xuất hệ sinh thái ngọt Tiểu vùng III Bắc Cà Mau với đặc trưng cây lúa là cây trồng chính giữ vai trò chủ lực với diện tích gần 30.000 ha, sản lượng lúa hằng năm thu về trên 330.000 tấn.

Vùng sản xuất hệ sinh thái ngọt Tiểu vùng III Bắc Cà Mau với đặc trưng cây lúa là cây trồng chính giữ vai trò chủ lực với diện tích gần 30.000 ha, sản lượng lúa hằng năm thu về trên 330.000 tấn.

Mưa ngập úng, nắng hạn khốc liệt

Mặc dù khu vực ngọt hoá của huyện đã được đầu tư khép kín hoàn chỉnh hệ thống đê bao ngoài và hệ thống cống ngăn mặn chống tràn, tiêu úng trên đê, song hằng năm, cứ vào mùa mưa, nhất là vào đầu vụ lúa hè thu và đầu vụ lúa đông xuân, sản xuất của nông dân gặp nhiều khó khăn do trong vùng thường bị ngập úng, gây thiệt hại sản xuất, mức độ tuỳ thuộc vào lượng mưa hằng năm. Ðịa hình khu vực không bằng phẳng, có vùng cao gò, vùng thấp trũng, nhưng đến nay việc xác định phân chia tiểu vùng cho phù hợp với điều kiện địa hình, điều kiện sản xuất phần lớn vẫn chưa được định hình đầu tư.

Ông Nguyễn Thế Châu, Chủ tịch UBND huyện Trần Văn Thời, cho biết: “Các ô thuỷ lợi đã được đầu tư khép kín, nhưng hệ thống cống, bờ bao thì chưa được đầu tư hệ thống trạm bơm tương thích, nên việc điều tiết nước gặp rất nhiều khó khăn, tình trạng ngập úng gây thiệt hại lúa và hoa màu khi có mưa lớn kéo dài. Cụ thể, từ đầu năm 2024 đến nay, qua 3 đợt mưa lớn, vùng ngọt hoá huyện Trần Văn Thời do bờ bao khuôn hộ không đảm bảo, không thể bơm tiêu úng hết được, dẫn đến lúa bị ngập kéo dài, làm thiệt hại gần 615 ha của 485 hộ sản xuất".

Ðược quy hoạch vùng ngọt hoá, huyện Trần Văn Thời rất đa dạng hệ sinh thái, phong phú chủng loại cây trồng, vật nuôi, các loài thuỷ sản nước ngọt và đã trở thành nét đặc trưng của vùng bán đảo Cà Mau. (Ảnh: Nông dân ấp Cơi 6A, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời thu hoạch khổ qua).

“Nguyên nhân do hệ thống thuỷ lợi chưa đồng bộ, các vùng có cao độ thấp, phía ngoài sông triều cường cao, hệ thống cống bao ngoài của tiểu vùng không thể tiêu nước được (mực nước trong, ngoài tương đương nhau). Bên cạnh đó, việc bố trí hệ thống trạm bơm công suất chưa phù hợp, hệ thống trạm bơm đặt trên tuyến Sông Ðốc theo phương án bơm ra sông lưu lượng quá nhỏ so với yêu cầu lưu lượng tiêu toàn vùng”, ông Châu phân tích.

Theo tính toán sơ bộ, lưu lượng bơm hiện có 116.000 m3/h, lưu lượng cần để bơm 914.900 m3/h, tức là cần đến 7,8 lần trạm bơm hiện có. Riêng 2 ô thuỷ lợi nhỏ có đặt trạm bơm gồm ô thuỷ lợi Khánh Bình Tây Bắc và ô thuỷ lợi Minh Hà là có hiệu quả, nhờ bố trí công suất bơm phù hợp nên chủ động được mùa vụ.

Ông Bùi Thanh Trung, Phó bí thư Ðảng uỷ xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời, bức xúc: “Ô thuỷ lợi xã Khánh Hưng được quy hoạch phục vụ sản xuất cho khu vực với diện tích khoảng 4.500 ha. Ðã qua, khu vực này chỉ có 1 trạm bơm với 5 máy, hiệu quả không cao. Ðồng thời, việc vận hành thời gian đóng, mở cống chưa sát nên chưa phát huy hiệu quả. Xã đề xuất đầu tư 5 trạm bơm cho ô thuỷ lợi này mới đảm bảo công suất bơm tháo nước, theo đó, gia cố bờ bao để đảm bảo sản xuất”.

Cũng phải kể đến một bộ phận không nhỏ nông dân vùng ngọt hoá khai thác sử dụng nước trong canh tác lúa một cách tuỳ tiện, không kiểm soát; nhất là trong thời điểm chuẩn bị sạ lúa, bơm tát đồng loạt trên diện tích rộng ào ạt đổ ra sông, vừa gây mất khối lượng nước rất lớn, vừa gây ngập úng cục bộ trên diện rộng trong toàn vùng. Ðến khi lúa ở giai đoạn sinh trưởng nhất định, tiếp tục bơm nước đồng loạt vào nội đồng gây thiếu nước nghiêm trọng và dẫn đến phát sinh nhiều hệ luỵ nặng nề như: sụt lún đất, kết cấu hạ tầng bị thiệt hại, giao thông thuỷ, bộ bị gián đoạn...

"Bên cạnh đó, một số cống trên địa bàn có khẩu độ chưa phù hợp. Một số tuyến kênh nhu cầu tiêu thoát nước cho lưu vực đòi hỏi cống phải có khẩu độ từ 7-8 m nhưng thực tế chỉ có 2,5 m, không đảm bảo tiêu nước nhanh chóng cũng như lưu thông, vận chuyển đường thuỷ. Việc vận hành một số công trình thuỷ lợi trên địa bàn một số xã chưa hợp lý, có lúc chưa hiệu quả do sử dụng máy bơm tiêu thoát nước khi mưa lớn hoặc triều cường cao nhưng không đóng các cống lân cận, dẫn đến tiêu thoát nước không hiệu quả và hao tốn chi phí nhiên liệu rất lớn", ông Nguyễn Thế Châu nhìn nhận.

Việc khai thác, sử dụng nước chưa phù hợp trong sản xuất nên vào mùa khô, các sông, rạch trong vùng khô cạn mất phản áp lực nước lên bờ kênh, là nguyên nhân chính dẫn đến sạt lở, sụt lún đất, đường giao thông rất nghiêm trọng trong vùng ngọt hoá thời gian qua. Thêm vào đó, chênh lệch biên độ triều giữa trong và ngoài vùng ngọt lớn, nguy cơ làm cho các công trình cống thuỷ lợi bị hư hỏng./.

 

Hồng Nhung

Bài cuối: Cấp thiết nhu cầu quy hoạch

 

Đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc - Chính sách có, khó khâu nào? - Bài 2: Góc nhìn thực tiễn

Ðồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) tại Cà Mau sống tập trung nhiều tại khu vực nông thôn, với hơn 9 ngàn hộ, chiếm trên 76% tổng số hộ DTTS của tỉnh. Phần lớn địa bàn mà đồng bào DTTS sinh sống thuộc các xã vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động đồng bào DTTS tại địa phương trong thực tế vẫn còn là bài toán với nhiều biến số.

Đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc - Chính sách có, khó khâu nào?

Ðào tạo nghề, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn, lao động người dân tộc thiểu số (DTTS) để thoát nghèo, cải thiện toàn diện cuộc sống gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS là chủ trương, chính sách ưu việt, nhân văn của Ðảng, Nhà nước, được triển khai thực hiện bằng nhiều nguồn lực, đa dạng các hình thức hỗ trợ.

Ðiều động, luân chuyển cán bộ - “Luyện vàng, giũa ngọc” - Bài cuối: Ðúng quy định, sát thực tiễn

Công tác cán bộ là công việc hệ trọng của Ðảng ta, nhưng cũng là khâu khó, cần phải được tiến hành đúng mục đích, yêu cầu, nguyên tắc; trong tổ chức thực hiện đảm bảo quy trình chặt chẽ, dân chủ, công khai, minh bạch. Ðồng chí Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh, khẳng định: “Ðối tượng, chức danh bố trí trong điều động, luân chuyển tại Cà Mau đảm bảo đúng Quy định số 65-QÐ/TW”.

Ðiều động, luân chuyển cán bộ - “Luyện vàng, giũa ngọc” - Bài 2: Khoá đào tạo đặc biệt

Quy định của Ðảng về thời gian luân chuyển, điều động cán bộ từ 3 năm trở lên. Ðây được coi là khoá đào tạo cán bộ đặc biệt, là môi trường “luyện vàng, giũa ngọc”, để lựa chọn những người đủ đức, đủ tài, ngang tầm với nhiệm vụ được giao phó. Bởi khi tiếp cận thực tiễn, sâu sát với đời sống Nhân dân, mỗi cán bộ sẽ tích luỹ, bồi tụ cho bản thân rất nhiều điều bổ ích; những bài học kinh nghiệm thiết thân, quý giá. Từ đó mang lại những giá trị cống hiến thực chất, thực sự cho Ðảng, cho Nhân dân.

Ðiều động, luân chuyển cán bộ - “Luyện vàng, giũa ngọc”

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, trọng yếu, thường xuyên, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng; tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Trong đó, xây dựng Ðảng về tổ chức, đặc biệt là công tác cán bộ, được Ðảng ta xác định là vấn đề “then chốt của then chốt”.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực

Tôm, cua Cà Mau là 2 ngành hàng chủ lực nâng cao đời sống của đại bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung. Tuy nhiên, những năm gần đây, 2 mặt hàng này đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự thay đổi nhanh, toàn diện để tạo đột phá và phát triển bền vững.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài cuối: Xứng đáng với vai trò, trọng trách

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HÐND 3 cấp tại Cà Mau đã trở thành quyết tâm, xu thế để đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xứng đáng với vai trò, trọng trách được cử tri tin tưởng trao gởi. HÐND các cấp của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đang ra sức phụng sự, phấn đấu, cống hiến vì mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 3: Tiếp xúc cử tri “đúng người, đúng việc, đúng vai”

Ông Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh Cà Mau, từng rất trăn trở: “Tiếp xúc cử tri mà cán bộ nhiều hơn dân thì chưa đúng người, đúng việc, đúng vai. Tình trạng này phải chấn chỉnh ngay, phải để tiếp xúc cử tri là nơi thể hiện quyền làm chủ thật sự, thực chất của Nhân dân; để bà con cử tri đóng góp ý kiến, đề đạt tâm tư, nguyện vọng và hiến kế góp phần vào sự ổn định, phát triển chung của địa phương”.