ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 4-5-25 04:15:38
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nâng cao giá trị nông sản- Bài 1: Chưa thể làm giàu từ nông sản

Báo Cà Mau (CMO) LTS: Nâng cao giá trị sản phẩm nông sản thông qua phát triển ngành chế biến, tạo ra sự đa dạng sản phẩm là giải pháp căn cơ để không còn tình trạng “được mùa, mất giá”, “trồng - chặt” như đã qua. Đề án phát triển ngành chế biến rau quả giai đoạn 2021-2030 là cơ hội lớn để Cà Mau tận dụng được nguồn vốn, chính sách đầu tư cho ngành chế biến nông sản của tỉnh phát triển. Đề án đặt mục tiêu phát triển bền vững ngành chế biến rau quả phải dựa trên nhu cầu thị trường tiêu thụ gắn với khả năng cung cấp nguyên liệu; tập trung khai thác và tận dụng các lợi thế sản xuất của từng vùng, từng địa phương. Thu hút các nguồn lực của xã hội để phục vụ phát triển ngành chế biến rau quả phù hợp với đặc thù của từng địa phương thông qua các định hướng, giải pháp, cơ chế chính sách, tháo gỡ những điểm nghẽn, tạo điều kiện môi trường thông thoáng, thuận lợi cho doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư phát triển…

Bài 1: Chưa thể làm giàu từ nông sản

Cà Mau có diện tích trồng rau màu lớn, tập trung ở các huyện vùng ngọt hoá như Trần Văn Thời, U Minh. Thế nhưng, giá trị nông sản của tỉnh chủ yếu là bán sản phẩm thô cho thương lái, chỉ một số rất ít sản phẩm được đầu tư đạt các chuẩn như VietGAP, OCOP... Điều này dẫn đến đầu ra không ổn định, phụ thuộc hoàn toàn vào nhu cầu tiêu thụ của thị trường ngoài tỉnh.

Long đong rau màu

Với diện tích trồng màu lên đến hàng ngàn héc-ta mỗi năm, Cà Mau có điều kiện thuận lợi để quy hoạch, phát triển những vùng nguyên liệu với các loại nông sản như rau màu, cây ăn trái. Thế nhưng hiện nay, phần lớn phát triển mang tính rời rạc, thiếu tập trung, nông dân thường chưa chủ động trồng những loại nông sản nào phù hợp, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Một số loại nông sản khi được hộ dân trồng lúc đầu có giá cao, sau đó được bà con nhân rộng với diện tích ngày càng lớn và sau một vài năm thì lâm vào tình trạng rớt giá do khủng hoảng thừa. Đây là thực tế không chỉ ở lỗ hổng quy hoạch của ngành chức năng, chính quyền địa phương, mà bắt nguồn từ nông dân khi họ không chủ động được đầu ra.

Tại huyện Trần Văn Thời, huyện có diện tích trồng màu lớn của tỉnh, thế nhưng nhiều năm qua tình trạng được mùa, mất giá vẫn thường xuyên xảy ra. Thậm chí cây đậu xanh một thời đem lại nguồn thu ổn định cho nông dân các xã Trần Hợi, Khánh Hưng, gần đây diện tích gieo trồng ngày một ít đi vì nhiều lý do.

Ông Kim Huôl, xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời với mô hình trồng cây ăn trái hiệu quả.

Ông Lý Hoàng Anh, Bí thư Chi bộ ấp Kinh Đứng A, xã Khánh Hưng, chia sẻ: “Nông dân ở đây ngoài trồng lúa hàng năm vẫn trồng xen đậu xanh và nhiều loại rau màu khác. Lúc trước đậu xanh có giá, bà con tập trung trồng nhiều, nhưng vài năm gần đây do thời tiết không thuận lợi nên đậu xanh bị thiệt hại nhiều; hơn nữa giá cũng sụt giảm, không còn được như những năm đầu, nên bà con dần bỏ đậu xanh. Nhiều người chuyển qua lên liếp trồng chuối vì loại cây này phù hợp với thổ nhưỡng nơi đây từ trước tới nay”.

Việc người dân liên tục chuyển qua lại giữa các loại cây trồng nhưng không loại rau màu, cây ăn trái nào thực sự mang tính bền vững diễn ra thường xuyên. Chỉ có một số ít nông dân chịu khó nghiên cứu, chuyển đổi sang những mô hình kinh tế mới, mang lại thu nhập cao khi mạnh dạn đi ngược lại với xu hướng chung là phát triển ồ ạt các loại rau màu đang giá cao, nhưng sau đó người dân đổ xô cùng nhau trồng, mở rộng mô hình, một thời gian dẫn đến tình trạng cung lớn hơn cầu, rớt giá trầm trọng.

Ông Duy Quốc Tuấn, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Trần Văn Thời, cho biết: “Huyện có diện tích trồng màu lớn với khoảng 3.000 ha, tập trung ở các xã: Trần Hợi, Khánh Hưng, Khánh Bình Đông. Đây là loại hình kinh tế hiệu quả của nông dân vùng ngọt. Tuy nhiên, những năm gần đây, do thời tiết không thuận lợi nên một số loại nông sản bị thiệt hại cũng như đầu ra thiếu ổn định, giá dao động lớn hàng năm. Năm nay mô hình trồng bí rợ của một số hộ dân ở xã Trần Hợi mang lại hiệu quả cao. Chúng tôi đang có hướng khuyến khích nhân rộng mô hình này”.

Thực tế, khi một số hộ dân ở xã Trần Hợi chuyển sang trồng bí rợ đã cho thu nhập cao, một phần nguyên nhân là do nguồn cung ít trong khi nhu cầu của một số thị trường ngoài tỉnh tăng cao nên loại nông sản này trở nên hút hàng so với những loại rau màu được bà con trồng đồng loạt khác. Anh Nguyễn Văn Hải, thương lái từ Cần Thơ, cho biết: “Năm nay tôi thu mua chủ yếu là bí rợ, một số ít nông sản khác do nhu cầu tiêu thụ hiện nay đối với bí rợ cao, giá mỗi ký bí rợ từ 7.000-8.000 đồng, thậm chí hơn chút ít tuỳ loại, chất lượng”. 

Nông dân xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời thu hoạch bí rợ. Ảnh: HUỲNH LÂM

Chưa quy hoạch cụ thể vùng nguyên liệu

Giá cả các loại nông sản của tỉnh từ trước đến nay luôn phụ thuộc vào nhu cầu thị trường ngoài tỉnh, khi nông dân chỉ trồng theo phong trào, loại nông sản nào năm nay được giá thì gần như ngay lập tức năm sau diện tích sẽ tăng lên. Điều này không chỉ dẫn đến rủi ro khi lượng cung quá lớn, là điều kiện để thương lái ép giá, mà còn chỉ ra một thực trạng, đó là chúng ta chưa có quy hoạch cụ thể vùng nguyên liệu cho từng loại nông sản ở vùng ngọt hoá. Hoạt động trồng rau màu trở nên manh mún và hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của nông dân, qua đó không thể nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm.

Ông Nguyễn Việt Thắng, Trưởng ấp 4, xã Khánh Thuận, huyện U Minh, cho biết: “Ngoài diện tích rừng, bà con chủ yếu trồng chuối và một số loại cây ăn trái khác, nhưng giá cả luôn không ổn định, phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái”. Gia đình ông Thắng có 4 ha trồng chuối, nhưng thu hoạch giảm theo từng năm. Theo ông tính, từ năm 2020 về trước giá 1 kg chuối từ 2.000-2.300 đồng, hiện nay chỉ còn 1.700 đồng/kg, điều này dẫn đến thu nhập từ 4 ha chuối hiện tại chỉ được khoảng 50 triệu đồng mỗi năm, trong khi trước đây trên 100 triệu đồng.

Anh Nguyễn Việt Thắng, Ấp 4, xã Khánh Thuận, huyện U Minh trồng chuối hơn 10 năm nhưng thu nhập không ổn định.

“Sản phẩm chuối chủ yếu là do thương lái ngoài tỉnh thu mua, chỉ một số lượng rất ít là được bán trong tỉnh, do đó đầu ra và giá cả đều phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái. Trên địa bàn huyện không có một cơ sở chế biến nào thu mua nông sản của người dân, nên việc phụ thuộc vào nhu cầu tiêu thụ của thị trường ngoài tỉnh không thể tránh khỏi. Nông dân trồng chuối không thể chủ động được đầu ra”, ông Thắng chia sẻ.

Huyện U Minh có 229 ha trồng màu truyền thống, trong đó có 5 ha trồng rau màu an toàn. Một số loại cây công nghiệp như dừa có 935 ha, hơn 2.680 ha trồng chuối; bên cạnh đó, khoảng 475 ha các loại cây ăn trái như cam, quýt, mận, xoài, táo… Điều này cho thấy, U Minh là huyện có diện tích trồng các loại nông sản lớn, nếu được quy hoạch và có chính sách khuyến khích đầu tư hợp lý sẽ mang lại nguồn thu nhập lớn cho người dân xứ rừng.

Tuy nhiên, bà Trần Hồng Ửng, Trưởng phòng NN&PTNT huyện U Minh, cho biết: “Hầu hết rau màu, cây ăn trái đều phát triển rời rạc, không tập trung, bà con chủ yếu lấy ngắn nuôi dài. Chưa có quy hoạch về vùng nguyên liệu cụ thể, mà chủ yếu phát triển nhỏ lẻ các vùng cây ăn trái ở đất lâm phần”.

Việc chưa có định hướng phát triển rõ ràng, hiệu quả đã dẫn đến giá trị kinh tế nông sản của tỉnh còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của những vùng ngọt hoá mang lại. Chúng ta khuyến khích nhưng chưa có những chủ trương cụ thể cũng như sự đồng hành của ngành chức năng trong hỗ trợ nông dân nâng cao kỹ thuật sản xuất, định hướng loại rau màu, cây trồng phù hợp, nhất là chưa đảm bảo được đầu ra cho nông sản bởi những hoạt động liên kết còn lỏng lẻo. Bên cạnh đó, tỉnh chưa khuyến khích được các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến để giải quyết đầu ra cho nguyên liệu tại chỗ. Việc hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường ngoài tỉnh sẽ không thể nào giải quyết được tình trạng được mùa, mất giá dai dẳng, ám ảnh nông dân Cà Mau./.

 

Đặng Duẩn

BÀI 2: VÙNG NGUYÊN LIỆU CHƯA PHÁT HUY GIÁ TRỊ

 

Ngày giải phóng Cà Mau

Dì tôi - Người đàn bà đi qua hai cuộc kháng chiến

Trước đây không lâu, Báo Cà Mau có đăng bài viết về chuyện bà Hai Ðầm tham gia trận diệt đồn Tân Bằng năm 1946. Trong trận đánh táo bạo này, bà được Chi bộ Thới Bình cài vào đồn giặc Pháp làm nội gián để cùng bộ đội ta thực hiện phương án “nội công ngoại kích”. Bài viết theo lời kể của ông Huỳnh Văn Tứ ở thị trấn Thới Bình, người cùng thế hệ và có mối quan hệ thân tộc với bà Hai Ðầm.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài cuối: Ðổi mới phương pháp dạy và học

Việc Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT) siết chặt quản lý dạy thêm, học thêm theo Thông tư số 29/2024/TT-BGDÐT quy định về dạy thêm, học thêm (Thông tư 29) đã nhận được sự đồng thuận của xã hội. Bởi chính phụ huynh, học sinh và cả các thầy cô giáo nhận ra đã đến lúc cần thay đổi tư duy giáo dục theo hướng mở.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài 2: Chia nhau trách nhiệm

Ðể siết chặt vấn đề dạy thêm - học thêm, nếu chỉ dựa vào nỗ lực của ngành giáo dục là chưa đủ, mà còn đòi hỏi sự nhìn nhận đúng và sự giám sát của phụ huynh, của xã hội.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều

Thông tư 29/2024/TT-BGDÐT ngày 30/12/2024 của Bộ Giáo dục và Ðào tạo (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm chính thức có hiệu lực từ ngày 14/2/2025. Câu hỏi đặt ra là việc quản lý sau đó như thế nào để không có việc “nóng” kiểm tra thời gian đầu, còn sau lại đâu vào đó? Giáo viên, phụ huynh và học sinh các cấp sẽ “sống” cùng với thông tư như thế nào? Bên cạnh đó, các cơ sở dạy thêm trên địa bàn tỉnh Cà Mau cũng đang oằn mình để đón thêm lượng học viên quá tải...

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài cuối: Nền móng vững chắc cho Cà Mau vươn xa

Chủ trương sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện, một quyết sách chiến lược của Chính phủ hướng đến bộ máy hành chính tinh gọn đã mang đến những thay đổi sâu rộng trong quản lý đô thị trên cả nước. Tại Cà Mau, bối cảnh mới này đòi hỏi sự đánh giá lại về quỹ đạo phát triển của các khu vực đô thị, đặc biệt là những nơi đã nỗ lực xây dựng các tiêu chí đô thị văn minh. Tới đây, các danh xưng hành chính có thể thay đổi, nền tảng hạ tầng, kinh tế và xã hội đã được kiến tạo vẫn là tài sản vô giá, làm nền móng vững chắc, định hình tương lai phát triển của Cà Mau sau này.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 2: Bước chuyển mình của đô thị hoá nông thôn

Khác với sự trỗi dậy mạnh mẽ của các đô thị động lực, như TP Cà Mau, Sông Ðốc và Năm Căn, những làng quê, nơi mà quá trình đô thị hoá đang diễn ra một cách lặng lẽ lại trở thành nơi lý tưởng, đáng sống, ước mơ của nhiều người. Cà Mau, từ một bức tranh tưởng chừng đơn điệu, với ruộng lúa, ao tôm, cánh đồng hoa màu và những con rạch hiền hoà, nay khoác lên mình diện mạo mới, hiện đại hơn, thuận tiện hơn, nhưng vẫn giữ được bản sắc miền Tây sông nước.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 3: Giải mã “điểm nghẽn” để khơi thông tiềm năng

Tốc độ đô thị hoá của Cà Mau tăng trung bình 1,3%/năm, phản ánh sức hút và tiềm năng nội tại. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa tương xứng với tiềm lực vốn có và còn cách biệt so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình đô thị hoá tại Cà Mau vẫn đang đối diện với những nút thắt cần tháo gỡ.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh

Tỉnh Cà Mau đang kiến tạo một nền tảng vững chắc để đô thị hoá trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Ðến cuối năm 2024, tỷ lệ đô thị hoá của tỉnh đạt 33,04%, với 22 đô thị, cao hơn mức trung bình của đồng bằng sông Cửu Long (32,0%) và vượt một số tỉnh lân cận, như Vĩnh Long (28,7%), Hậu Giang (30,5%)... Với TP Cà Mau, Năm Căn và Sông Ðốc làm tam giác động lực, tỉnh không chỉ mở rộng không gian đô thị mà còn tạo sức bật kinh tế toàn diện. Không chạy theo đô thị hoá ồ ạt, tỉnh tập trung xây dựng nền tảng hạ tầng vững chắc, phát huy lợi thế kinh tế biển, logistics và dịch vụ thương mại để trở thành điểm sáng mới của vùng Tây Nam Bộ.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài cuối: Khơi thông dòng chảy

Khởi nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng tài nguyên bản địa của địa phương là một lợi thế. Tuy nhiên, nó cũng có nhiều thách thức cho hoạt động khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp “xanh” nói riêng của tỉnh. Ðể nâng tầm khởi nghiệp “xanh”, Cà Mau đang cần những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Ðịa phương cũng cần chú trọng hơn đến phát triển kinh tế bền vững và hỗ trợ các mô hình khởi nghiệp “xanh”, cũng như các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, đào tạo, phát triển cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.