(CMO) Con kênh Cựa Gà nằm giữa Xóm Lá và Rạch Trại thuộc địa bàn Ấp 2, xã Khánh Tiến, huyện U Minh, là quê hương của tôi. Lúc còn sống, cha kể địa danh Cựa Gà có từ thời chống Pháp. Đó là một đoạn kênh nhỏ, ngắn, chừng hơn 3 cây số tẻ về hướng Tây từ con sông Lòng Ống kéo dài. Xóm Cựa Gà có khoảng 50 hộ dân, sống chan hoà, nghĩa tình như bà con ruột thịt.
Lúc còn nhỏ chơi với tụi bạn trong xóm, tôi gọi một đứa nhỏ xíu, mặt búng ra sữa bằng “mày” nhưng bị cha tôi nhắc: “Con phải gọi người này bằng bác Út!”. Nghe theo lời cha, từ hôm đó về sau tôi tập xưng hô với thằng bạn bằng “bác Út” một cách miễn cưỡng, khó khăn… nhưng lâu dần cũng thành quen. Khi lớn lên tôi mới biết, giữa tôi và bác Út không có bà con thân tộc gì, chỉ gọi theo mối quan hệ của người lớn, gọi theo vai vế xóm làng. Vậy mà đến tận bây giờ, mỗi lần về quê gặp lại người bạn xưa, cách xưng hô bác - cháu vẫn còn y nguyên như mấy chục năm trước. Thế mới biết, tình làng nghĩa xóm sâu nặng đến mức nào.
Khánh Tiến được công nhận xã nông thôn mới năm 2019. |
Đường về Cựa Gà hôm nay. |
Kênh Cựa Gà cách biển Hương Mai thật gần. Lúc nhỏ, mỗi khi qua cơn dông bão, tụi con nít chúng tôi thường đi bộ ra phía biển tìm lượm đồ trôi dạt vào bờ. Có hôm chúng tôi lượm được những cái can nhựa to đùng, chiếc phao lưới nhiều màu sắc, cái thùng phuy… có lần gặp may tôi còn lượm được trái cầu mây bằng nhựa. Vậy là từ hôm đó, trái cầu mây thay cho “trái banh” làm bằng bập dừa nước lăn trên sân mỗi buổi chiều với bọn trẻ trong xóm. Những chiều biển êm, chúng tôi thường ra mé biển bắt con còng gió làm mồi thả câu. Cái càng con còng gió nhiều màu xanh, đỏ, tím, vàng… trông thật đẹp. Khi thả mồi trên ruộng nước ngọt, cái càng nhiều màu phát sáng dưới nước ban đêm, lại có vị mặn tanh của biển… nên cá lóc rất mê. Lần nào thả câu bằng mồi con còng gió đều dính cá lóc nhiều hơn, bự hơn so với thả câu bằng mồi ốc lác, cua đồng.
Tuy gần biển nhưng cá đồng ở Cựa Gà có tiếng một thời. Cũng như nhiều làng quê vùng ngọt hoá của Cà Mau, đến mùa chụp đìa kênh Cựa Gà vui như mở hội. Đó là lúc lúa đã vô đầy bồ, gió chướng thổi về, các mẹ các chị trang hoàng nhà cửa, tụi nhỏ nhốn nháo quần áo đẹp đón Tết… thì cánh đàn ông đi dọn cỏ quanh ao, ghim lưới chụp đìa.
Hồi đó, bà con trong xóm vần công cả chuyện làm ruộng đến chụp đìa. Đàn ông dọn cỏ, kéo lưới, gánh cá về nhà. Phụ nữ lựa cá, cân cá, làm khô, làm mắm…, không khí tất bật, rộn ràng. Bên mép đìa, dưới chân ruộng những ụ rơm, gốc rạ quấn quanh, phủ trùm kín mít những con cá lóc, cá dầy hướng đầu lên trời đang chờ bốc lửa nướng trui. Có ai ngờ, những món ăn dân dã, đời thường như vậy thời đó đã trở thành món ngon của nhiều nhà hàng, khu du lịch sinh thái bây giờ. Có điều, cá nướng trui tại nhà hàng không ngon, không vui như ngày xưa. Cũng nướng rơm, bày biện cá trên tàu lá chuối tươi, rượu Xóm Dừa cay nồng, bắp chuối đập giập, hột muối ớt trắng ngần… nhưng thịt cá không ngọt, không thơm bằng ngày xưa, nhất là không tìm ra được cái không khí ấm áp, vui tươi mùa chụp đìa.
Bà con kênh Cựa Gà trồng một vụ lúa, cây ăn trái, chăn nuôi… làm kế sinh nhai từ ngày mới đặt chân đến vùng đất này. Cho đến những năm đầu thập niên 90, tại đây có 2 người đầu tiên bắt tay làm lúa vụ 2. Đó là cha tôi và dượng Tư Hồng (Đặng Thanh Hồng, năm nay trên 80 tuổi, hiện ở Phường 1, TP Cà Mau).
Tôi nhớ năm đó, tầm sau Tết không lâu, cha tôi và dượng Tư Hồng thuê chủ trâu cày hết diện tích đất ruộng. Mọi người đến coi xì xầm: “Cày đất rải mạ sớm quá! Sao đất rải mạ diện tích lớn vậy?”. Hai anh em chỉ cười trừ, giải thích: “Tụi này làm lúa vụ 2!”. Có người thắc mắc: “Lạ nghen, làm giống lúa gì?”. Cha tôi trả lời chung chung: “Giống lúa mới”.
Cánh đồng lúa vụ 2 của cha tôi và dượng Tư Hồng trở thành mô hình trình diễn thời điểm đó ở Cựa Gà. Từ khi hột giống nẩy mầm, đâm chồi, đẻ nhánh, làm đòng, thu hoạch đều nhận được sự quan tâm của xóm giềng. Phải nói rằng đất Cựa Gà phù hợp làm lúa vụ 2, cây lúa phát triển tốt, năng suất vượt trội. Song, vì lần đầu làm lúa vụ 2 với diện tích nhỏ, chưa có kinh nghiệm nên bị ảnh hưởng sâu bệnh, chim, chuột, giá cả… Đặc biệt, thời điểm thu hoạch lúa vụ 2 vào lúc mưa sòng, tìm được máy tuốt lúa đã khó, muốn phơi được lúa lại càng khó khăn hơn. Cha tôi và dượng Tư Hồng mua cao su lót dưới sân đất, căng trên cao hứng nước mưa, dọn dẹp đồ đạc trong nhà… để trữ lúa. Hàng ngày phải đốt hàng chục cây đèn măng xông để tạo hơi nóng phơi lúa…
Vụ lúa năm đó năng suất đạt nhưng chất lượng lúa giảm, thương lái đến tận nhà coi lúa xong rồi lắc đầu không chịu mua. Vậy là sáng kiến làm lúa vụ 2 của cha tôi và dượng Tư Hồng đành lỗ vốn nhưng bù lại được nhiều kinh nghiệm. Câu chuyện làm lúa vụ 2 được mọi người đưa vào cuộc họp chi bộ ấp, đem ra bàn trong mâm trà, tiệc rượu… và nhận được sự đồng tình, hưởng ứng của rất đông bà con. Một năm sau đó có thêm 5, 7 hộ cùng làm lúa vụ 2; năm tiếp theo cả kênh Cựa Gà cùng làm lúa vụ 2.
Khi có chủ trương chuyển dịch sang nuôi tôm, kênh Cựa Gà vẫn giữ tình đoàn kết xóm làng trong sinh hoạt, sản xuất. Có mô hình hay, hiệu quả bà con đều sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, con giống, đồng vốn… lẫn nhau. Hôm nay, người dân Cựa Gà vẫn vậy, luôn chí thú làm ăn, sáng kiến tìm tòi những mô hình sản xuất mới, sống đoàn kết, có nghĩa có tình và sẵn sàng đóng góp công sức, tiền bạc để xây dựng nông thôn mới./.
Đỗ Chí Công