Cách đây không lâu, một buổi biểu diễn thời trang của một nhà thiết kế Việt đã làm dấy lên một cuộc tranh luận - nhưng không hẳn liên quan đến yếu tố thời trang, mà là liên quan đến việc nhà thiết kế đã "chịu chơi" khi đưa vào show diễn của mình gần 40 tấn rơm với trị giá trên dưới 1 tỷ đồng (do phải qua công đoạn sấy khô, khử mùi, tiệt trùng, tiền công thiết kế cho sàn diễn...).
Cách đây không lâu, một buổi biểu diễn thời trang của một nhà thiết kế Việt đã làm dấy lên một cuộc tranh luận - nhưng không hẳn liên quan đến yếu tố thời trang, mà là liên quan đến việc nhà thiết kế đã "chịu chơi" khi đưa vào show diễn của mình gần 40 tấn rơm với trị giá trên dưới 1 tỷ đồng (do phải qua công đoạn sấy khô, khử mùi, tiệt trùng, tiền công thiết kế cho sàn diễn...).
Bên cạnh những lời khen về ý tưởng khác lạ cũng có lời chê rằng đó là sự lãng phí khi bỏ ra ngần ấy số tiền chỉ vì... rơm, mà dường như quên rằng những người nông dân cũng có lợi phần nào khi bán đi số rơm rạ ấy cho buổi biểu diễn. Và rơm rạ đã được đường hoàng bước lên sàn diễn thời trang, nơi mà sự hào nhoáng, xa hoa như là một phần tất yếu.
Trong những năm gần đây, các thiết kế đường hoa, nhà hàng, khu du lịch… tại các khu đô thị, thành phố lớn, hình ảnh rơm rạ, lu nước, cầu khỉ, giàn bầu bí, xe cổ mộ… thường được đưa vào và được đón nhận nồng nhiệt bởi những cư dân (đôi lúc) không phân biệt đâu là rơm, đâu là cỏ khô hoặc những người mang trong lòng nỗi hoài nhớ về mùi khói đốt đồng, món cá nướng, chén cơm gạo mới được nấu bằng rơm rạ, những buổi chơi trò trốn tìm và cả những giấc trưa ngã mình chợp mắt quanh các ụ rơm giờ đã trở thành một phần của kỷ niệm.
Nhưng thật lòng mà nói, khi “bị” tách khỏi không gian quen thuộc, bó rơm, lu nước, cây cầu tre…, tuy tái hiện lại phần nào khung cảnh mà nơi chúng thuộc về nhưng ít nhiều vẫn có gì đó… lạc điệu. Có chút gì đó như là sự sắp đặt để “biểu diễn” (mà quả thật là mang tính biểu diễn, trưng bày) chứ không còn là tự thân của rơm, rạ, bến nước, cầu ao… nơi mà những người đã được sinh ra và lớn lên nơi ấy cảm thấy thân thuộc.
Mà cũng khó mà thân thuộc bởi đụn rơm kia nếu ở dưới quê thì sẽ dùng cho bò ăn, để nhóm lửa, để làm phân bón ủ cho cây, trồng nấm, để nướng cá đồng, đôi lúc còn được trộn chung với bùn để đắp tường nhà; cái lu kia sẽ dùng để chứa nước mưa, là nơi lóng phèn cho nước giếng, nước sông, có khi dùng để rộng cá (nếu như nhà không có ao), có nhà còn dùng lu để chứa mắm, dưa ở nhà làm, vừa để bán, vừa ăn quanh năm.
Còn chiếc cầu tre, cầu khỉ là nơi kẽo kẹt lại qua của biết bao người chứ không phải được dựng lên chỉ để ngắm hoặc để chơi trò tập đi cầu khỉ, cầu tre nhằm tìm cảm giác lạ giữa không gian đô thị đầy nghẹt người và xe cộ.
Nơi đó, mùi rơm rạ không còn là mùi khói đốt đồng, không gợi nhớ được đến món cá nướng hay chén cơm thơm thơm mùi khói hay cái lu đơn giản chỉ là một vật tròn là lạ làm từ đất nung chứ nào biết đến vị ngọt của nước mưa hay vị chua của nước phèn, món mắm dưa dậy mùi chứa đựng trong đó…
Lan man về điều đó lâu lâu thấy giật mình vì trong các thiết kế ấy, đôi lúc có những dòng ghi chú nhỏ đặt bên cạnh để “giải thích” từng tấm món, chẳng hạn như cái lờ bắt cá dùng để bắt cá ra sao, cái nia, cái sàng, cái vại, cái chum… thường được người quê dùng vào việc gì… Nghe qua cảm giác cứ như thể mình đang tham quan… bảo tàng chứ không còn cảm giác thân thuộc của đụn rơm, lu nước, rổ rá… trong chái bếp hiên nhà.
Cũng khó trách khi ban tổ chức làm điều ấy bởi nói không ngoa, một số trẻ con, người trẻ ở các đô thị lớn bây giờ có người còn không thể phân biệt được đâu là trái mướp, đâu là dưa leo hoặc không hề biết nấm rơm vốn được trồng từ rơm rạ… nên việc “chú giải” ấy là điều cần thiết. Chỉ thương cho những người khách tham quan đến để mong tìm lại được chút hình bóng quê nhà trong ký ức, giờ nhìn thấy những bản chú giải kia, thấy bó rơm, lu nước, vại sành… tuy quen thuộc với một phần đời mình, giờ như lạ, như quen, như lạc lõng với chút hẫng hụt… mà không cách gì lý giải nổi…
Ðoàn Ngọc